Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Cấp cứu chỉnh hình số 19 – BS Nguyễn Văn Thịnh

GÃY CẲNG TAY (FRACTURE DE L’AVANT BRAS)
Dominique SARAGAGLIA Professeur des universités-Praticien hospitalier d’orthopédie-traumatologie Chef du service de chirurgie orthopédique et de traumatologie du sport, urgences CHU de Grenoble, hôpital sud
Gãy cẳng tay được giới hạn từ mấu nhị đầu (tubérosité radiale) xương quay đến 2 khoát ngón tay trên nếp gấp cổ tay (interligne radio-carpienne). Ở phía trên, chúng nằm trong khung cảnh của gãy khuỷu tay (đầu, cổ xương quay và mỏm khuỷu) và ở phía dưới, trong những gãy xương của cổ tay và đặc biệt những gãy xương của đầu dưới của xương quay.
I. CƠ THỂ BỆNH LÝ :
Ta phân biệt :
1/ Những gãy của một xương duy nhất được gọi là những gãy riêng rẻ (fracture isolée) của xương quay hay xương trụ (ulna).
2/ Những gãy của hai xương cẳng tay
3/ Những gãy của một xương duy nhất với trật gần hay xa (luxation proximale ou distale) của xương kia :
a/ Gãy Monteggia liên kết gãy xương trụ (fracture du cubitus) và trật chỏm xương quay (luxation de la tête radiale) :
+ ở phía trước đối với gãy cổ điển,
+ ở phía sau đối với gãy Monteggia ngược (fracture de Monteggia inversée). Kết hợp xương bằng nẹp vít trên xương trụ của gãy xương Monteggia của hình 2a, liên kết với kết hợp xương bằng bắt vít riêng rẻ của chỏm quay. (Incidence de face et de profil).
b/ Gãy Galeazzi liên kết một gãy xương quay (fracture du radius) với một trật khớp quay-trụ dưới (luxation radio-cubitale inférieure)
Thường đó là một gãy ngang hay xiên ngắn (fracture oblique courte) với một mảnh trung gian thứ ba (khá thường gặp).
II. CHẨN ĐOÁN
– Chẩn đoán thường hiển nhiên trên phương diện lâm sàng và chụp X quang sẽ xác nhận chẩn đoán.
– Không nên quên khám khuỷu tay và cổ tay trước một gãy xương đơn độc của cẳng tay và yêu cầu trong tất cả các trường hợp những phim chụp X quang của các khớp trên và dưới.

III. XỬ TRÍ
– Điều trị chỉnh hình là ngoại lệ ở người lớn.
– Một điều trị chỉnh hình có thể được đề nghị trong vài trường hợp gãy xương không di lệch hay ít di lệch của xương trụ.
– Trong những trường hợp này, thời gian consolidation là dài. Một thời gian bất động 60 ngày không phải là hiếm.
– Mọi gãy xương cẳng tay phải được mổ (bằng nẹp vít +++) để tránh những sẹo xấu (cal vicieux) luôn luôn ảnh hưởng lên động tác sấp ngửa của cẳng tay.
– Tốt hơn là mổ cấp cứu những gãy xương này.
– Trong trường hợp phòng mổ không sẵn sàng, điều trị chờ đợi nhằm bất động bằng bó bột cánh-cẳng-bàn tay (platre brachio-palmaire) nhằm mục đích giảm đau.
– Trong vài trường hợp gãy xương có động lượng cao (fracture à haute énergie), trong đó phải sợ những phần mềm của cẳng tay bị đè nát, phải dè chừng một hội chứng khoang (syndrome des loges) có thể dẫn đến hội chứng Volkman. Buộc phải đo áp lực trong cơ (pression intramusculaire) khi có chút nghi ngờ (đau dữ dội, mạch đập, những loge cơ căng, những rồi loạn thần kinh cảm giác).
Reference : Traumatologie à l’usage de l’urgentiste
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(23/3/2016)