Nguyễn Lương Tuấn
Nhà văn Anatole France ngồi
trước lò sưởi, nghe tiếng củi kêu lách tách, ký ức ông bừng dậy, ông thấy một cậu
bé, cái cặp trên vai, con vụ trong túi, cậu đi ngang qua công viên Lu xemberg
trong những ngày đầu tháng 10. Vừa đi cậu vừa nhảy nhót như một con chim sẽ. Ý
tưởng gặp lại bạn bè làm cho lòng cậu cảm thấy vui vui. Đó là hình ảnh của cậu
bé và cũng là tác giả, cách đây 30 năm. ..
Tôi rất thích đoạn văn trên
đây. Cũng vậy, Tôi nhớ mãi quãng đời đi học của tôi tại Huế, nơi tôi chào đời,
cái nôi nuôi tôi khôn lớn thành người cùng với những người tôi yêu mến: Những
thành viên ruột thịt trong gia đình tôi, cha tôi, bà nội, các anh chị tôi…những
người hàng xóm tốt bụng của Xóm Chợ Dinh, Phú Hậu
Và các vị thầy, cô các bạn bè,
những người đã cho tôi những kỷ niệm ngọt ngào, đằm thắm của quãng đời đi học.
Tôi đã đi qua những lớp học,
ngôi trường: Lớp học trong xóm Chợ Dinh, kiệt Cây Gòn, do cô Bích giảng dạy rồi
trường tiểu học Bồ Đề Thành Nội, trường trung học Nguyễn Du, trường trung học
phổ thông Nguyễn Tri Phương và sau cùng trường đại học Văn khoa Huế.
Các thầy cô, những người tôi
được dạy dỗ qua từng giai đoạn mãi mãi là những người thầy để lại trong tôi những
hình ảnh tốt đẹp nhất: Sự tận tụy trong vấn đề giảng dạy, lòng ôn nhu của các
người, sự thương yêu chăm sóc cho học trò là những điểm sáng chiếu dọi mãi
trong ký ức mù mịt của tôi, làm tan biến những ô uế buồn nôn của Giáo dục ngày
nay.
Hôm nay tháng giêng âm lịch,
những ngày tết đã đi qua, mùa xuân vẫn còn và không khí, tiết trời đang rét buốt.
Tôi đóng cửa ngồi trước computer gõ những dòng chữ nhớ về các thầy cô ngày ấy tại
trường trung học Nguyễn Du những năm tôi được học với các người 1960-1964.
Tôi không phân biệt các năm
học, tôi chỉ nhớ những khuôn mặt của các thầy đi qua đời tôi trong từng ấy năm.
Tôi chỉ được học với một cô duy nhất, đó là cô Lê Thị Cổn dạy toán năm học lớp
đệ thất. Còn các lớp sau này từ đệ lục cho đến đệ tứ và cả đệ thất tôi nhớ vanh
vách từng thầy: Thầy Nguyễn Như Minh (Pháp văn đệ thất), thầy Nguyễn Ngọc Phấn
(Pháp văn 3 lớp sau cùng), thầy Nguyễn Đình Chung (toán 3 lớp sau cùng) rồi thầy
Nguyễn Phúc, thầy Vỏ Mai, thầy Tôn Thất Dương Tiềm, thầy Trần Trung, thầy Lê
Lương Nguyên, thầy Lê Đức Tứ, thầy Hà Quý Phi (dạy sử năm đệ thất).
Mỗi thầy có một tính cách
khác nhau nhưng tất cả đều rất tận tình, thương yêu, chăm lo cho học trò. Có thầy
rất nghiêm, có thầy rất hiền, có thầy rất mềm mỏng, có thầy rất cứng rắn nhưng
nói chung tất cả các thầy đều rất đàng hoàng, gương mẫu và xem học trò như con.
Trong 4 năm học tại Nguyễn
Du tôi có nhiều kỷ niệm về các thầy. Mỗi thầy có một vài chuyện nhỏ thú vị, dễ
thương làm tôi nhớ mãi. Hôm nay ngồi đây, đầu năm nhớ về các thầy tôi xin gợi lại
vài kỷ niệm:
Thầy Hà Quý Phi
Tôi nghĩ rằng có thể nhiều bạn
học Nguyễn Du không nhớ về thầy Phi. Thầy Phi chỉ dạy có một năm là môn Lịch sử
lớp đệ thất hay đệ lục tôi không nhớ kỹ nhưng kỷ niệm về thầy thì rõ ràng tôi
không quên vì bản tính hiền lành của thầy đối với học trò. Tôi nhớ ngày đó đi dạy
bao giờ thầy cũng mặc áo veston thắt
cravate. Môn Lịch sử thầy dạy hình như Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ nhất với
các cuộc khởi nghĩa của Tiền nhân ta, …Điều mà tôi ấn tượng nhất là có một lần
làm bài thi đệ nhất lục cá nguyệt. Học sinh thấy thầy hiền, chép bài nhau rất
nhiều. Thầy lại cho điểm rất rộng nữa. Hôm trả bài thi. Học sinh nào cũng được
điểm cao. Có một bạn tôi còn nhớ là Hồ Văn Quýnh càm hai bài thi lên “kiện” thầy
Phi vì bài của mình thua bài của bạn bên cạnh đến …0,5 điểm.lựng
Quýnh nói:
-Thưa thầy bài của con và
bài của bạn ni giống hệt nhau mà răng bạn ni được 9điểm mà bài của con chỉ 8,5
điểm ri?
Thầy Phi xem bài hai bạn, một
chốc sau thầy nói:
-Đúng rồi!! bài ni so với
bài ni bị thiếu một dấu phết. 8,5 điểm là đúng rồi!
Hồ Văn Quýnh xem lại thì thật
quả đúng như vậy nên đành chịu trận, đi về.
Mới đây tôi kể lại với Võ
Văn Đôn về kỷ niệm này. Võ Văn Đôn cười nói: “Ừ công nhận ông thầy Phi hiền thiệt
mi hí!”
Đôn nói:
-Tau nhớ dạo nớ nhà thầy Phi
ở mô nơi Ngã Giữa!
Điều mà tôi vẫn còn nhớ ở thầy
Phi là cuối năm gần tết, thầy có hai cái thiệp chúc tết thật đẹp. Thầy thưởng
cho hai đứa được điểm Sử cao nhất lớp. Trong đó có tôi. Tôi nhớ thầy có hai câu
thơ chúc tết:
Năm mới thầy chúc cho các
trò
Càng thêm một tuổi lại càng
lo!
Thầy Nguyễn Đình Chung
Nhắc đến thầy Chung, tôi
nghĩ rằng tất cả các bạn nếu là CHS Nguyễn Du Huế trước 1975 thì không ai là
không biết đến thầy Chung. Với tôi ngày ấy, từ một học sinh lớp đệ lục
1961-1962 cho đến các lớp tiếp theo, ngũ và tứ thì tôi nhìn thầy Chung như là một
biểu tượng cho cái gì hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất, nói cách khác thầy Chung là
thần tượng của tôi. Từ nét mặt cho đến phong cách và phương pháp giảng toán của
thầy toát ra một cái gì đó rất uy nghiêm và đáng kính . Tính cách ôn nhu của thầy
khi thầy nói giữa lớp, nhất nhất tôi nhìn thầy và nể trọng thầy quá trời!
Phương pháp giảng toán của thầy Chung có đặc điểm là thầy cho làm các bài tập
ngay tại lớp, cho HS lên bảng sửa ngay
và trong bài thầy cho nhiều ví dụ: ví dụ1, ví dụ2, ví dụ3, …đi từ dễ đến khó. Mỗi
ví dụ như vậy thầy cho HS làm ngay tại lớp với tính cách tự nguyện lên bảng
trình bày. Nếu đúng thầy cho điểm tốt. Cứ đến cuối tháng HS đưa điểm tốt mình có được để thầy cho điểm vô sổ.
Điều mà tôi thích nhất ở thầy
Chung là thầy rất chú trọng đến vấn đề vở sạch chữ đẹp cũng như cách trình bày.
Mỗi năm thầy chấm vở hai lần mỗi lần cuối kỳ thi lục cá nguyệt..Tôi thừa hưởng
được điều này từ anh tôi. Vì ông anh cũng là HS giỏi của các thầy. Tôi được anh
dặn là ở lớp nên viết nháp các bài thầy giảng rồi về nhà chép lại vào vở. Vở có
giấy bao, có nhãn. Nhãn nằm góc trên phía phải. Trang 1 của vở: phía trên ghi
trường, niên khóa. Giữa vở là tên môn học viết chữ in to và tô đậm, phía dưới
ghi tên mình và và tên GS dạy bộ môn. Vào trang 3 chép chương trình. Trang 5 bắt
đầu bài học 1, …
Ngày ấy có phong trào HS
Nguyễn Du đua nhau viết bài bằng ngòi viết chấm mực hòa trong bình. Thế hệ của
anh tôi và các bạn của anh , họ đều về nhà viết chữ bằng ngòi viết chấm mực (đen
hay xanhm mua về hòa). Ngòi viết có tên gọi là serrent major. Do đó khi đi học
Nguyễn Du thế hệ sau anh tôi, tôi cũng y thế mà thực hiện.
Tôi học môn toán mấy năm với
thầy Chung không giỏi nhưng có thể nói thầy rất chú trọng đến tôi vì vở tôi viết
thầy chấm, luôn được 10 hoặc 9. Vẫn nhớ mãi mỗi lần chấm vở thầy vẫn cầm vở của
tôi đi từng bàn cho các bạn khác xem.
Gợi lại điều này mục đích là
để thấy rằng thầy Chung rất chú trọng đến vở sạch chữ đẹp cũng như cách trình
bày vở.
Những năm tháng tôi học với
thầy Chung, hình như thầy vẫn chưa có gia đình nhưng tôi nhớ nhà thầy gần trường
Bồ Đề Thành Nội. Nhà thầy rất đẹp, là một biệt thự có sân rộng, có mái che cho
xe hơi vào đỗ. Lớp tôi học ngày ấy tôi nhớ có mấy bạn nữ sinh rất cao, lớn lại
xinh nữa, nổi bật nhất là bạn Trần Thị Tô (mà tôi vẫn kêu là chị). Có lần thầy
Chung gọi Trần Thị Tô:
-Chị Tô đứng dậy thầy coi
Khi ra chơi Hồ Văn Quýnh
tinh nghịch vẫn nhắc lại với nụ cười thú vị:
-
Chị Tô đứng dậy thầy coi!
Chúng tôi vẫn nhớ mãi về Trần
Thị Tô. Mới đây các bạn về nhà tôi nhân giỗ mẹ tôi, có bạn nhắc Trần Thị Tô và
theo lời một bạn cho biết Trần Thị Tô có về VN thăm gia đình, sau đó đã qua đời
vì bệnh ung thư.
Thầy Nguyễn Phúc
Thầy Phúc dáng cao cao, ốm,
đi chiếc xe Vespa màu xanh mãi mãi tôi không thể nào quên. Tôi học Quốc văn với
thầy 2 năm đệ thất và đệ lục, hình như tôi nhớ thầy có dạy một môn nữa là môn địa
lý năm lớp đệ ngủ hay đệ lục gì đó. Nhưng nhớ về thầy Phúc thì tôi chỉ nhớ về
thầy Phúc với những bài trích giảng ở môn Kim Văn, mãi cho đến bây giờ tôi vẫn
còn thuộc mấy bài văn thầy đưa vào để dạy. Do cách thầy giảng hay để lại cho
tôi ấn tượng, nên những bài trích giảng của thầy ngày ấy, ngày nay tôi vẫn còn
nhớ những đoạn đầu.
Bài học mở đầu năm lớp đệ thất
tôi nhớ “Tôi đi học” của Thanh Tịnh: “Buổi mai hôm ấy một buổi mai đầy sương
thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi trên một con đường
dài và hẹp …” hay bài “Ký ức về ngày tựu
trường” của Anatole France mờ đầu năm đệ luc: “Tôi sắp nói cho các bạn biết điều
mà hằng năm, bầu trời rún rẩy của mùa thu, những buổi cơm chiều dưới ánh đèn, tôi
sắp nói cho các bạn biết. …” hoặc bài “Làng Từ Lâm” của Nhất Linh: “Tôi đến một
nơi gọi là làng Từ Lâm. Xa xa toàn là núi.
Núi ngọn nọ, ngọn kia không dứt. Núi màu lam buổi sáng buổi chiều mây
bay sương phủ … “
Tuy nhiên có một bài trích
giảng từ một bài văn xuôi của thi sĩ Đinh Hùng mà ngày nay tôi vẫn còn nhớ y
bài. Đó là bài “Nhớ thu”:
“Thu năm nay tôi lại đi trên
con đường vắng này, nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ. Những cây liễu xanh đứng
buồn như những nàng cung nữ thời xưa và trong vườn nhà ai thấp thoáng hoa phù
dung nở trắng như một linh hồn còn trẻ. Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh
hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Đường này hiu hắt tôi đem lòng tôi để
thương nhớ mùa thu cũ, nay cũng thấy thu về với mặt nước hồ xanh. Chân ai đi xa
vắng ở đằng kia hay chỉ là gió thoảng mênh mông. Và gió nào vương vấn lòng tôi
hay chỉ là dư âm của một ngày xa cũ. “.
Bài của thi sĩ Đinh Hùng nếu
tôi nhớ không lầm thì thầy Phúc giảng rất hay, thầy để lòng mình hòa nhập vào tâm
trạng của tác giả. Giọng thầy ồ ồ nghe lúc đầu chưa quen ta cảm nhận hơi buồn
cười nhưng khi quen rồi tôi lại thấy quyễn rũ.
So với các thầy khác như thầy
Chung, thầy Mai, thầy Tứ, tôi thấy thầy Phúc trẻ, tính cách nghệ sĩ. Không những
thầy dạy kim văn hay mà cổ văn thầy dạy cũng rất hấp dẫn quyến rũ như truyện Nhị
thập tứ hiếu, chuyện cổ tích Việt Nam hoặc ca dao tục ngữ , … Mãi cho đến bây
giờ tôi vẫn còn nhớ mấy câu ca dao châm biếm mà thầy Phúc trích giảng:
Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ vét chảo, thấy cha
vét nồi
Thấy em tựa cửa liếm môi
Anh tưởng con chó anh liền
tránh xa
Hoặc
Lổ mũi em những tám gánh
lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng
trời cho
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm
rắc đầu
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ
cơm
Hoặc
Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xin một quẻ lấy chồng đặng
chăng?
Ông thầy gieo quẻ nhủ rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng
không còn, …
Còn nhớ một kỷ niệm, ngày ấy
tôi viết các bài giảng vào vở, thay vì mỗi hàng kẻ có 4 ô li, tôi dùng hai ô li
để viết, nghĩa là các chữ tôi viết các hàng sít nhau, độ hở các hàng nhỏ lại bằng
nửa. Do đó các chữ viết dày đặc. Có lần thầy Phúc xem vở của tôi và nửa đùa nửa
thật:
-
Cái anh ni là sư tổ hà tiên!
Tôi mỉm cười, không vì thế
mà buồn nhưng vui vì nghĩ rằng thầy Phúc chiếu cố tới mình. Tôi phục thầy và
tôi nhìn thầy Phúc qua lăng chiếu của một con người nghệ sĩ. Sau này, tôi được
biết thầy là một nhà văn, đã xuất bản tập truyện "Đêm không hết" và
viết nhiều trên tạp chí "Bách khoa thời đại". Tôi nhìn thầy như một
thần tượng và ước mong sau này mình làm thế nào để nối gót thầy.
Mười mấy năm sau, tôi ra đời
vào dạy tại trường trung học Bồ Đề Đà Nẵng, tôi gặp lại thầy, xiết bao vui mừng.
Nhưng sau một vài lần trao đổi, tôi không nhìn ra được thầy Phúc ngày xưa của
tôi. Thầy không còn dạy môn Quốc văn nữa mà dạy môn địa lý. Và khi nói chuyện với
tôi thầy không có vẻ nồng nhiệt sôi nổi.
Tôi buồn và tự nghĩ "Đừng
bao giờ tắm hai lần trong một dòng sông"..
Sau này tôi được biết thầy
hoạt động nằm vùng.
29 tháng 3 năm 1975, thầy
Phúc không còn dạy học nữa và trở thành cán bộ cho đến ngày về hưu.
Những năm sau này (cách đây
khoảng 6, 7 năm) tôi vẫn thường được hội kiến với thầy Phúc qua những buổi họp
mặt CHS Bồ Đề Đà Nẵng. Thầy Phúc lúc này
đã mõi mệt, cả tinh thần lẫn thể xác. Lúc nầy gặp tôi thầy nói chuyện tự nhiên
hơn, vui vẻ hơn. Tôi chú ý thấy thầy đeo máy trợ thính. Hỏi thăm, thầy bảo thầy
bị điếc nặng.
Sau đó ít năm, gặp thầy Đặng
Công Hanh, một người cùng dạy Bồ Đề với tôi, hỏi thăm thầy Phúc, tôi mới biết
thầy đã qua đời, mặc dù hằng năm, họp mặt học sinh Bồ Đề Đà Nẵng, các em vẫn có
mời tôi tham dự và gặp thầy Phúc, chuyện trò với ông, nhưng rất tiếc khi thầy
qua đời, các em không thông báo để tôi thắp cho thầy nén hương.
Nhớ về thầy Phúc là tôi nhớ
về kỷ niệm. Kỷ niệm cách đây hơn 50 năm, ngày ấy tôi là cậu học trò 12 tuổi,
nhìn thầy, mơ ước được như thầy.
Các thầy dạy tôi học ở trường
Nguyễn Du Huế ngày ấy và bây giờ tôi vẫn nhớ tính cách của từng thầy như chuyện
vừa xảy ra hôm qua. Phải chăng vì các thầy đã để lại cho tôi những kỷ niệm tốt đẹp. Tôi vẫn không quên được thầy Lê Đức Tứ
với nụ cười của thầy mỗi khi thầy làm thí nghiệm trong giờ Vật lý hay hóa học
cho học sinh xem tại phòng đôi hai lớp đệ tứ học chung, thầy Nguyễn Như Minh với
cây thước dài chỉ trỏ những học sinh không đưa tay để lên bảng làm câu thème mà
thầy vừa cho. Thầy nói :” não đất sét mực xạ, não đất sét mực xạ!” Hay thầy Tôn
thất Dương Tiềm với lối giảng bài quyến rũ, kể chuyện hấp dẫn của ông, ….
Đã trên nửa thế kỷ nhớ lại
tôi thấy sao quá chạnh lòng. Trong bài “Nhớ trường trung học Nguyễn Du Huế” tôi
đã trải lòng mình để ghi lại cảm xúc khi nhớ về ngôi trường yêu quý ngày ấy.
Tâm hồn tôi như có tiếng gọi văng vẳng và tôi nghĩ rằng đó là tiếng gọi của kỷ
niệm. Tiếng gọi của ngôi trường xưa, với sân trường, lớp học, những tà áo trắng,
tiếng cười, giọng nói, từng khuôn mặt thầy cô, bạn bè.
Ôi! Tôi nhớ và nhớ, ngôi trường
Nguyễn Du Huế ngày xa xưa ấy …