Làm rễ xứ Huế
Ngày tôi quen O Điểm thì O mới học xong lớp 10. Năm đó, chị của
O có cái quán cà phê Thượng Uyển trong Đà Nẵng nên mùa hè O vào giúp chị.
Tôi xăng xái xin làm gia sư. Mới được hơn một tháng thì O Điểm “bỏ bùa”
cho tôi. Hết hè, O trở lại Huế đi học thì rời trường Thành Nội mà qua Đồng
Khánh. Tôi xin biệt phái đi theo trực thăng tản thương đêm trong Mang Cá
(Tổng Y Viện Nguyễn Tri Phương) và ban ngày đi học nơi trường Luật, học
cho vui và để lấy le thôi, chứ tôi học dốt lắm.
Những lần rủ O trốn học đi chơi ở đồi
Thiên An, hay lên các lăng tẩm là những ngày vui không bao giờ chúng tôi
quên được. Hai đứa cũng tránh không lên chùa Thiên Mụ vì nghe nói cặp nào
đưa nhau lên nơi linh thiêng đó thì thế nào cuộc tình cũng tan vỡ.
Chuyện tình Romeo và Juliet (hay Rô bi nê
và Toa lét) của O và tôi lắm nỗi thăng trầm là vì O bên Lương, còn tôi bên
Đạo. Ông Nhạc gia tôi hồi đó không chịu gả O là vì tôi khác đạo, con nhà
làm ruộng, lại nữa ông có thành kiến với người Bắc, chắc ông nghe người ta
nói nhiều về con trai Bắc Kỳ thường đểu. Nhưng tôi biết lý do chính là vì
ông không muốn con gái út lấy chồng phương xa, tuốt mãi trong Rạch
Giá.
“Có con mà gả chồng gần, có bát canh cần
nó cũng bưng cho!
Có con mà gả chồng xa, trước là mất họ sau là mất con!”
Có con mà gả chồng xa, trước là mất họ sau là mất con!”
Nhưng Cậu ruột của O lại là một Linh Mục
đang ở Nha Trang nên hết lòng hỗ trợ cho chúng tôi lấy nhau. Nhớ hồi sau
1975, chúng tôi nghèo quá, đám cưới chỉ có một con heo 50 ký do anh cả tôi
cho; hai cái nhẫn vàng mỏng dính như sợi chỉ; chiếc áo cưới chỉ là áo
trắng như hồi còn đi học.
Năm 1981, chúng tôi đến Mỹ, trong tay có
5 đồng bạc. Vất vả cũng lắm, mà hạnh phúc cũng nhiều. Gia đình Mẹ và các
anh chị em tôi, nhất là mấy bà chị dâu thường nói:
“Chú lấy được O Điểm là phúc đức ông bà
để lại.”
Quả thực có thế, O đã sanh cho tôi 3 đứa con trai cao ráo và một đứa con gái út rất đẹp. Chắc đẹp cỡ như tôi. (Just kidding – đùa thôi.) Cách dậy dỗ con cái, tôi phú hết cho O nên đứa nào cũng ngoan ngoãn. Nay, hai đứa đã ra trường còn hai đứa cũng sắp xong. Đúng là phúc đức ông bà, chứ tánh tôi cục cằn, thô lỗ, dạy con chắc không xong, mà còn bị “ép phe” (effet) ngược là đằng khác.
Qua xứ người, tôi còn có thời giờ cắp sách đến trường để học thêm chút đỉnh, chứ O rời sở làm là lao đầu vào bếp, lau nhà, giặt quần áo, trồng rau thơm, rau cải sau vườn.
Bây giờ, tôi ra kinh doanh ở ngoài, đâu có bảo hiểm sức khỏe gì! May có hãng của O nên cả gia đình không phải lo tới vấn đề chi phí cho khám bịnh, nhà thương gì hết. Thật là quá mừng.
Quả thực có thế, O đã sanh cho tôi 3 đứa con trai cao ráo và một đứa con gái út rất đẹp. Chắc đẹp cỡ như tôi. (Just kidding – đùa thôi.) Cách dậy dỗ con cái, tôi phú hết cho O nên đứa nào cũng ngoan ngoãn. Nay, hai đứa đã ra trường còn hai đứa cũng sắp xong. Đúng là phúc đức ông bà, chứ tánh tôi cục cằn, thô lỗ, dạy con chắc không xong, mà còn bị “ép phe” (effet) ngược là đằng khác.
Qua xứ người, tôi còn có thời giờ cắp sách đến trường để học thêm chút đỉnh, chứ O rời sở làm là lao đầu vào bếp, lau nhà, giặt quần áo, trồng rau thơm, rau cải sau vườn.
Bây giờ, tôi ra kinh doanh ở ngoài, đâu có bảo hiểm sức khỏe gì! May có hãng của O nên cả gia đình không phải lo tới vấn đề chi phí cho khám bịnh, nhà thương gì hết. Thật là quá mừng.
Không nhắc đến tài nấu ăn, nhất là những
món Huế của O quả là một điều thiếu sót. Bạn bè xa gần thường nhắc nhớ đến
Bún Bò O Điểm, mà hầu hết tháng nào cũng có nấu một lần trong cái nồi lớn
chừng 30 lít. Người trong nhà, con cháu và bạn tới chơi, thường ăn hai tô,
một tô lúc mới tới và một tô trước khi ra về. Những món như bánh nậm, bánh
bột lọc, bánh ít… tôi không thích mấy, chỉ khoái những món chè của O mà
thôi. Chắc ai cũng biết rằng Chợ Dinh nơi O ở có cả làng bán chè rất nổi
tiếng. Qua đến Mỹ, món chè của O đã được “thăng hoa” lên hàng thượng thừa
vì vật phẩm dùng để nấu có thêm nhiều thứ như rong biển, nấm trắng, táo
tàu nhỏ, hoài sơn, ý dĩ v v.. nên chè đã ngon, lại càng thêm ngon.
Thành phố chúng tôi đang định cư là
Little SG ở Nam Cali, có thể gọi là Thủ Phủ của người VN ở Hải Ngoại, cách
bờ biển chừng 10 phút lái xe. Dọc bờ biển, có những chiếc cầu bắt nhoài ra
biển cả gần nửa cây số cho dân chúng đứng câu; nơi đây có rất nhiều cá nục
chuối và cá trích. Những mùa khác thì cá ít hơn, nhưng mùa hè đến thì cá
nhiều vô số, một dây câu cột mấy lưỡi là dính bằng ấy cá, có khi cả chục
con nhưng vì cầu khá cao, mà cá giãy dữ quá nên rơi rớt hết phân nửa.
Người Nam và Bắc khi kho cá, nhứt là cá biển thì thường kho khô và bỏ
nhiều tiêu, khi họ thấy mình kho cá nục lõng bõng nước thì sợ nó sẽ tanh.
Nhưng khi O Điểm kho cá nục tươi rói mới đi câu về với mấy trái ớt xanh bẻ
đôi, tỏi đập dập, vắt chút chanh, ăn với bún thì ôi thôi ai nấy nuốt vội,
nuốt vàng, có khi nuốt luôn cả lưỡi. Tôi thường ăn kèm với món này một ít
rau thơm và giá; nhưng O nói ăn như vậy không thưởng thức hết mùi vị của
con cá nục.
Đó, nhờ được O “chăm bẵm” như vậy nên tôi
không còn ốm nhách, cao kều như cây tre miễu nữa, mà nay trông rất “sổ
sữa”, cắt tóc cạo râu, cho diện đồ mới, chân mang dép, mang giầy vô coi
cũng ra dáng con người lắm, chứ không giống con đười ươi! Nếu có ai hỏi
tôi yêu O ở điểm nào thì tôi tình thực trả lời rằng đó là nụ cười vui với
hàm răng trắng bóng như bắp cồn Hến và nhất là… bàn chân nhỏ nhắn, có cái
gót hồng hào, người ta nói là “Vượng phu ích tử” gì gì đó.
Bạn bè tôi thường ganh tị rằng họ đã lỡ
lấy vợ miền khác, chứ không may mắn lấy được vợ Huế như tôi. Họ hỏi bí
quyết nào mà có được nhà cửa êm ấm làm vậy, tôi thường trả lời rằng lấy vợ
Huế, khi cô ấy cằn nhằn mình nghe không hiểu gì hết, nên có cãi lại vợ bao
giờ mà thành lớn chuyện, lục đục trong nhà.
Nếu ”kiếp sau” được làm người, nhất là
được làm đàn ông, thì tôi sẽ nhất quyết lấy vợ Huế nữa, cho dù mấy cô kia
có là Hoa Hậu, Hoa Khôi đi nữa…. tôi cũng chẳng màng.
Diệm Tần