Trần
Đình Sơn Cước
Trong lời nói đầu
của tạp chí Dòng Việt số 4 mùa
thu năm 1997, số đặc
biệt kỷ niệm bốn mươi năm Viện
Đại Học Huế (1957-1997),
có đoạn viết: “... trên
bờ sông Hương thơ mộng cách
đây vừa tròn bốn mươi năm
(1957) một Đại học mang nhiều tính
chất độc đáo đã được
hình thành do nhiệt tình và ý
chí sắt đá của một nhóm
trí thức trẻ dưới sự lãnh
đạo của một nhà giáo dục
đầy kinh nghiệm và nặng lòng với
đất nước.
Viện
Đại học Huế là một biểu
tượng.
“...
Nó (Viện Đại Học Huế) đáp
ứng được nhu cầu hiếu học của
một miền đất nghèo nhưng giàu
truyền thống văn hóa, biết tôn
trọng trí thức và tình người.
Nó trấn đóng miền địa đầu,
sừng sững như một tiền đồn,
nói lên quyết tâm bảo vệ nhân
phẩm, tinh thần dân chủ và những
giá trị bất khả nhượng của
con người trong một giai đoạn đầy
khói lửa và đau thương của
lịch sử Việt Nam...”.
Trường
Đại Học Luật Khoa là một trong
những trường đại học được
thành lập ngay từ ngày đầu tiên
khai sinh Viện Đại Học Huế. Trường
nằm khiêm tốn trên một khuôn đất
hẹp, giữa hai con đường
Lê Lợi và Nguyễn Huệ gặp
nhau gần phía ga Huế, được
cắt bởi con đường Lam Sơn chạy
thẳng lên dốc Nam Giao. Trường gồm
một ngôi nhà lầu hai tầng quay mặt
ra phía đường Lam Sơn, sát hàng
cây bàng thân cao thẳng, lá đỏ
vào mùa thu. Lối vào ngôi nhà
qua một cổng nhỏ vừa cho một xe đạp
hoặc xe gắn máy. Các giáo sư
thường đi bộ từ cư xá giáo
sư chỉ cách trường ba bốn trăm
thước để vào trường qua lối
cổng nầy. Tầng trệt của ngôi nhà
dành cho phòng hành chánh, văn phòng
của ông Tổng Thư Ký; tầng trên
là văn phòng giáo
sư Khoa Trưởng, Thư Viện và phòng
Giáo Sư. Phía đường Lê Lợi
, đối diện với cổng chính, một
dãy nhà dài, gác gỗ, chia thành
nhiều phòng học của sinh viên. Giảng
đường duy nhất của trường nằm
trong sân phía trái. Phòng ghi danh và
văn phòng Ban Đại Diện Sinh Viên
chia nhau một ngôi nhà nhỏ, mái bằng,
nằm bên cánh phải tạo nên sân
trường hình chữ U nhỏ hẹp nhưng
ấm cúng...
Nếu
bao lớp sinh viên luật khoa của Sài
Gòn nhớ về ngôi trường của
mình với “con đường Duy Tân
cây dài bóng mát....”, thì
sinh viên luật khoa
Huế không thể nào phai mờ trong ký
ức với cây đa cổ thụ tỏa
bóng trong sân trường nhỏ bé,
sát ngay giảng đường mang tên một
vị Khoa Trưởng Phan Văn Thiết. Gốc
cây to lắm, đường kính dễ
chừng hai tới ba người ôm không
xuể. Rễ đa rủ xuống, to nhỏ khác
nhau, tạo thành những sợi dây thừng
buông lơ lửng từ trên cao trông
rất đẹp... Một bờ gạch được
xây tròn quanh gốc cây là chỗ
ngồi chờ đợi giờ học, kết
quả thi... của nam nữ sinh viên. Tôi có
hỏi một số anh chị sinh viên những
khóa đầu tiên nhưng không ai biết
chính xác cây được trồng từ
lúc nào. Ai cũng chỉ nhớ khi họ
vào trường thì cây đa đã
có. Khi họ
rời trường, những khi trở
lại thăm trường thì cây đa
vẫn còn đó như giữ giùm họ
bao kỷ niệm của một thời sinh viên
tươi đẹp. Trong bốn trường đại
học còn lại của Viện Đại
Học Huế không có sân trường
nào có cây cổ thụ như cây
đa của trường Luật. Trường Đại
Học Văn Khoa và Trường Đại
Học Khoa Học chia nhau khu nhà Morin, chỉ có
hàng cây muối tỏa bóng trên vệ
đường Lê Lợi, hoặc bóng cây
dầu trên góc đường Duy Tân
phía cầu Tràng Tiền chạy về An
Cựu. Trường Đại Học Sư Phạm
và Trường Đại Học Y Khoa do xây
dựng những năm sau khi thành lập Viện
Đại Học nên sân trường không
có cây nào đủ năm tháng để
trở thành cây cổ thụ. Như vậy,
cây đa trong sân trường Luật là
một trong những cây cổ thụ hiếm,
có thể có độ tuổi xấp xỉ
với những cây cổ thụ được
trồng lâu năm nhất của thành phố
Huế...
Cây
đa cổ thụ trong sân trường Đại
Học Luật Khoa Huế cũ
...
Tôi ghi danh vào trường Luật là
theo ý thích của riêng tôi. Mẹ
tôi mong tôi theo ngành dược hoặc
nghề sư phạm như các anh chị tôi.
Thế nhưng tôi không có duyên với
nghề dược. Năm tôi vào đại học, chỉ học sinh tú
tài ban A và ban B mới được dự
thi tuyển vào trường đại học
dược khoa. Tôi tốt nghiệp tú tài
ban C nên mong ước của mẹ tôi
không thành. Bạn bè cùng lớp
năm đó của tôi phần nhiều
ghi danh vào đại học Văn Khoa hoặc
trúng tuyển vào Trường Đại
Học Sư Phạm. Chính vì thiếu bạn
quen thân lúc mới vào trường nên
những năm tháng đầu tôi thường
thích lui tới đại học Văn Khoa nơi
có Võ Quê theo học để rồi
cùng được rủ đọc thơ
trong những đêm thơ nhạc do Ban Đại
Diện Sinh Viên của anh Nguyễn Văn Phụng
tổ chức...
Kỷ
niệm đầu tiên của tôi ở
trường Luật là buổi tranh cử ban
đại diện sinh viên. Đây là
một sinh hoạt hấp dẫn và mới lạ
đối với một học sinh vừa xong bậc
trung học lần đầu tiên bước
vào ngưỡng cửa đại học. Nếu
bầu đại diện lớp ở bậc trung
học chỉ giới hạn trong một lớp và
đơn giản được các bạn
trong lớp đó bầu ra, thì ứng cử
và bầu cử ban đại diện sinh viên
ở trường đại học được
tổ chức như một cuộc bầu cử
thật trong đời sống chính trị
của xã hội. Có Ủy ban bầu cử,
có ghi danh, vận động, có bích
chương, biểu ngữ, có quảng bá
chương trình hành động và
áp dụng các kỹ thuật tranh cử
được học trong các môn chính
trị, xã hội. Chờ đợi và
hấp dẫn nhất là buổi tranh luận
trực tiếp của các liên danh tranh cử
và phần chất vấn của sinh viên
trong một buổi họp toàn thể sinh viên
từ năm thứ nhất đến năm thứ
tư. Sau khi tranh luận, trả lời chất
vấn, sinh viên sẽ bầu phiếu trực
tiếp, kín. Cuộc kiểm phiếu được
ban bầu cử tiến hành và ban nầy
có thẩm quyền chuẩn nhận và
tuyên bố kết quả bầu cử. ..
Bích
chương vận động tranh cử
do anh Bửu Chỉ trình bày và thực hiện (1972)
do anh Bửu Chỉ trình bày và thực hiện (1972)
Ứng
viên Tổng Thư Ký một liên danh
phát biểu trong ngày tranh cử (1972)
phát biểu trong ngày tranh cử (1972)
Quang cảnh hội trường ngày
tranh cử (1972)
Không
hiểu vì sao năm đó, khi chân ướt
chân ráo vào năm thứ nhất, chưa
quen biết nhiều, tôi lại ủng hộ
liên danh do anh Nguyễn An Chuyên (năm thứ
ba) thụ uỷ, tranh cử với anh Hồ Đắc
Vọng (năm thứ tư) làm chủ tịch.
Tôi chỉ còn mang máng nhớ rằng
liên danh anh Vọng có khuynh hướng thân
chính quyền hoặc được
sinh viên thân chính quyền ủng hộ.
Trường luật là trường đại
học ghi danh chứ không phải trường
thi tuyển, nên sinh viên có hai thành
phần: chuyên cần và miễn chuyên
cần. Sinh viên miễn chuyên cần phần
lớn là sinh viên vừa đi làm, vừa
đi học. Họ có thể đang là
công chức, quân đội, cảnh sát...,
lớn tuổi và có thể đã có
gia đình. Họ ghi danh nhưng không cần
đến lớp thường xuyên như sinh
viên chuyên cần, miễn sao họ học
đủ và thi đậu các kỳ thi.
Vì thành phần rộng rãi và
không đồng nhất, nên được
đa số sinh viên ủng hộ để đắc
cử vào ban đại diện sinh viên ở
trường Luật không phải là chuyện
đơn giản. Nhất là khi cuộc chiến
bước gần đến những năm kết
thúc, các phe lâm chiến đều muốn
nắm được hoặc gây được
ảnh hưởng vào các ban đại
diện sinh viên. Vì hoạt động sinh
viên có ảnh hưởng đến đời
sống chính trị của xã hội nên
chính quyền muốn được kiểm
soát sinh viên, phe Mặt Trận Giải
Phóng (thường được gọi là
Việt Cộng) cũng có
bộ phận trí vận để chỉ đạo
việc khuynh loát các ban đại diện
sinh viên... Hôm tranh luận của hai liên
danh nói trên, tôi và một anh sinh
viên năm thứ ba, ủng hộ liên danh
anh Nguyễn An Chuyên, lên diễn đàn
phát biểu và chất vấn liên danh
bên kia. Lần đầu tiên được
phát biểu trước cử tọa đông
đảo, có lẽ do tâm lý phấn
khích, nên chúng tôi phát biểu
quá say sưa. Dĩ nhiên là chúng
tôi được vỗ tay. Vừa bước
xuống diễn đàn, đang chưa kịp
lấy lại bình tĩnh đã nghe bên
tai lời dọa dẫm “coi chừng bị
đòn!”. Anh sinh viên năm thứ ba
kia và tôi lách đám đông
rút lui ra đứng một lúc dưới
cây đa. Hai đứa nhìn nhau, ngầm
hiểu nguy hiểm có thể xảy ra, nên
cùng nhau mở khóa xe đạp và dắt
xe ra khỏi cổng trường. Chúng tôi
quặt ngược lại phía đường
Lam Sơn để về đường Nguyễn
Huệ. Anh sinh viên năm thứ ba, người
nhỏ, thấp hơn tôi, nhưng đôi
mắt anh rất sáng và thông minh, anh
đạp xe sau tôi. Bỗng anh đạp nhanh
lên, song song xe tôi. Anh giới thiệu tên
anh và rủ tôi ghé nhà anh chơi.
Tôi theo anh về nhà anh. Nhà anh là
một biệt thự cũ, nằm trên đường
Trưng Trắc. Chúng tôi không đả
động chi về buổi tranh cử vừa qua.
Anh đem sách hội họa bằng tiếng
pháp cho tôi xem. Anh cho tôi coi mấy bức
tranh tập vẽ của anh. Buổi ban đầu
quen nhau chỉ qua đôi câu trao đổi
về hội họa. Anh biết tôi là
người có làm thơ, có thơ
đăng báo… Chúng tôi chia tay
nhau. Không ngờ anh với
tôi còn nhiều dịp
gặp nhau, gần gũi nhau và cũng có
với nhau những kỷ niệm khó quên.
Anh sinh viên năm thứ ba
trong buổi tranh cử hôm
đó chính là họa sĩ Bửu
Chỉ. Liên danh anh Nguyễn
An Chuyên năm đó đắc cử. Ban
Đại Diện của anh hoạt động
ngay. Phòng Ban Đại Diện mở cửa
suốt ngày, tấp nập sinh viên ra vào,
luôn luôn có tiếng nói cười,
tiếng đàn ca rộn
rã. Phần tôi, sau “biến cố”
đó, tôi lại chăm chú vào
việc học. Sau giờ học là về nhà,
không màng sinh hoạt chi cả. Phải đợi
đến khi qua được kỳ thi môn
dân luật của giáo sư Nguyễn Toại
(kỳ 1 chỉ có khoảng 20 sinh viên qua
lọt!) tôi mới ghé lại phòng ban
đại diện để cùng các anh
Chuyên, Cường, Vịnh, chị An Nhàn,
chị Tịnh, chị Sinh… và dĩ nhiên
là cùng anh Bửu Chỉ
sát cánh nhau trong các hoạt động
cứu trợ nạn nhân bão lụt, trồng
cây nêu đón Tết, “Đêm
Luật Khoa”… Không hiểu vì sao,
sau đó anh Bửu Chỉ và tôi lại
tấp về Tổng Hội Sinh Viên số 22
Trương Định, xa dần các anh chị
trong Ban Đại Diện của anh Chuyên, để
dấn thân vào những hoạt động
của anh chị em ở Tổng Hội Sinh Viên,
cùng nhau chia xẻ vui buồn trong phong trào
sinh viên tranh đấu những năm 1970. Không
được ai “móc nối”, “giật
dây”, tôi nghĩ chắc anh Bửu Chỉ
cũng như tôi đến với “mặt
đường khát vọng”, với “lửa đường phố” chỉ bằng
trái tim và máu nóng tuổi đôi
mươi. Gặp nhau thường xuyên ở
trụ sở Tổng Hội Sinh viên,
căn nhà có giàn hoa giấy phía
sau, có phòng đánh cờ tướng,
có cà phê thơm nóng
của chị Giang, có mì gói
thơm lừng của Mệ… Cùng
nhau những ngày đêm anh vẽ tranh, bích
chương, biểu ngữ, chúng tôi làm
thơ, viết tin, xã luận, in ấn và
xuống đường biểu tình, chiếm
sân trường đại học… Anh cùng
tôi và 3 anh em khác (anh Lê Văn
Thuyên, Nguyễn Hoàng Thọ, Nguyễn Duy
Hiền) là 5 sinh viên cùng bị “hốt”
tại sân trường Đồng Khánh,
cùng bị ăn đòn ở Ty Thẩm
Vấn, cùng bị nhốt ở Ty An Ninh Quân
Đội ở Cầu Kho, cùng bị biệt
giam ở nhà giam Thanh Bình (Đà Nẵng),
cùng giam chung một lúc với các bạn
học sinh thuộc Tổng Đoàn Học Sinh
Đà Nẵng trước khi bị đưa
về Huế để ra Ủy Ban An Ninh Tỉnh
Thừa Thiên, cùng bị trục xuất ra
khỏi Huế và bị chỉ định cư
trú tại Sài Gòn. Anh và tôi
lại cùng nhau (có thêm Nguyễn Duy
Hiền) được ông bà Luật sư
Bùi Chánh Thời, là một giáo
sư thỉnh giảng của trường Đại
Học Luật Khoa Huế, gởi vô trốn
trong cô nhi viện Quách Thị Trang những
ngày ký Hiệp Định Paris phòng
lỡ có chuyện không may xảy đến
cho bọn chúng tôi… Rồi anh bị
bắt giam trở lại. Tôi vẫn tiếp
tục mỗi tháng một lần phải lên
Ty Cảnh Sát Quận 3 trình diện cho đến
ngày “toàn thắng”.
Chúng
tôi lại gặp nhau sáng mồng 2 tháng
năm tại số 4 Duy Tân. Chúng tôi
lại cùng nhau về 55 Duy Tân, cùng Lê
Văn Triều, Lê Văn Nghĩa, Mạnh Tường,
Lưu Hoàng Thao, Nguyễn Duy Hiền …
làm bản tin Tuổi Trẻ. Qua
sắp xếp của anh Huỳnh Tấn Mẫm,
chúng tôi gặp anh Dương Văn Đầy
để được “bồi dưỡng
chính trị cấp tốc” trên căn
phòng bỏ trống của tầng lầu ở
số 4 Duy Tân. Chúng tôi bắt đầu
tập viết theo những từ rất mới
lạ: “nhất trí”, “hồ hởi,
phấn khởi”, “khẩn trương”... Những ngày tháng đó,
các anh Trần Mạnh Hảo, Hoàng
Phủ Ngọc Phan, Lê Thanh Xuân… là
những nhà thơ, nhà báo cách
mạng đầu tiên mà
chúng tôi được gặp. Theo một
vài lời khuyên, chúng tôi lần
lượt quay về Huế để “công
tác”…
Từ
trái: Nguyễn Duy Hiền, Lê văn Nghĩa,
Bửu Chỉ, Trần Đình Sơn Cước
ảnh chụp vào tháng 5/1975 tại số 55 Duy Tân , Sài Gòn cũ.
ảnh chụp vào tháng 5/1975 tại số 55 Duy Tân , Sài Gòn cũ.
Về
lại Huế, chúng tôi không còn có
dịp làm việc chung với nhau. Anh Bửu
Chỉ về Hội Văn Nghệ. Tôi về
Phòng Văn Hóa thông tin, cùng các
anh Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ...
lo chương trình phát thanh của Đài
Truyền Thanh Thành phố Huế. Từ đó,
trong không khí được gọi là
“hồ hởi phấn khởi” của cuộc
đổi đời, cả anh và tôi không
ai còn muốn nhắc đến những kỷ
niệm dưới ngôi trường đại
học cũ của mình. Nhưng trường
cũ đâu còn! Ngay sau ngày “toàn
thắng”, trường Luật đã bị
xóa tên. Số sinh viên đang theo học
được cho chuyển đổi qua trường
sư phạm hoặc chuyển vào Sài Gòn
theo học ngành kinh tế. Cơ sở phòng
ốc của trường Luật biến thành
chỗ ở cho hàng chục gia đình.
Những phòng học, phòng làm việc
được họ che chắn, ngăn chia thành
buồng ngủ, buồng ăn. Lối đi,
sân sau, được ngăn thành
chuồng nuôi heo, gà vịt. Số phận
thương tâm của ngôi trường
chính là số phận cay đắng của
bao thế hệ sinh viên trường luật.
Nếu anh Bửu Chỉ chọn hẳn con đường
hội họa, có thể anh muốn quên đi
hoặc muốn giấu nỗi đau
một thời mình là sinh viên
trường Luật. Riêng tôi, và còn
biết bao nhiêu thế hệ đàn anh, bè
bạn, tai còn phải nghe, lòng còn như
muối xát, vì đã lỡ hấp
thụ phải một thứ luật tư sản,
một thứ công cụ đàn áp của
giai cấp bóc lột… Từ những buổi
họp ở tổ dân phố cho đến các
buổi học tập thảo luận nghị quyết
của Đảng, Nhà nước, đâu
đâu cũng rặt những lời kết
án, miệt thị thứ luật tư sản,
đế quốc đó. Trong khí
thế cách mạng hừng hực của những
năm tháng đầu sau giải phóng, (mà
mãi mấy chục năm sau nhớ lại họa
sỹ Đinh Cường chỉ muốn
nhẹ nhàng gọi đó là “Huế
những ngày nằng nặng”) quan điểm
lập trường luôn luôn được
lên dây cót. Một em bé trai chừng
5, 6 tuổi con của một cán bộ phó
ban tuyên huấn tỉnh lúc được
đi thăm ( “tham quan”) các lăng tẩm
ở Huế đã không chịu gọi đó
là lăng vua Tự Đức, Minh Mạng...
vì đó là lăng mộ của những
tên bán nước. Bố cháu tự
hào khoe cùng các đồng chí bạn
bè cháu chừng nớ tuổi mà đã
vững vàng lập trường quan điểm.
Biết đâu chừng em bé đó nay
đang là chủ tịch, phó chủ tịch,
trưởng ban Festival Huế đang ra sức chỉ
đạo phục hồi, phục chế đến
cả cái chén ăn, chiếc giường
ngủ của các “tên bán nước
phong kiến” kia để vừa lòng khách
du lịch muôn phương! Không
kể những cựu sinh viên luật đã
là thẩm phán, công chức, quân
đội, trong các tổ chức đảng
phái phản động, phải đi học
tập cải tạo, những người một
thời là sinh viên trường luật
không có một chỗ dung thân dưới
xã hội mới. Họ phải dấu kín
mớ kiến thức luật tư sản của
họ, làm bất cứ việc chi để
nuôi sống gia đình và bản thân.
Chạy chợ, bỏ mối hàng hóa,
thuốc tây, mua bán ve chai, đạp xe thồ,
đạp xe xích lô... Mồ
hôi đổ xuống và chữ nghĩa
tiêu dần theo năm tháng. Có ai còn
nhận ra họ, những cô
nữ sinh viên xinh đẹp đài các,
những chàng sinh viên một thời tươi
trẻ hào hoa...
Vào
khoảng những năm 1988, 1989... khi một luồng
gió gọi là đổi mới thổi
qua đất nước, những nhà lãnh
đạo ngành tư pháp có lòng
ở thành phố Hồ Chí Minh chợt
nhớ ra một lực lượng trí thức
có kiến thức luật cũ đã bị
bỏ hoang phế bao nhiêu năm, họ cho tập
họp lại thành một lớp gọi là
lớp bồi dưỡng 1 năm luật pháp
xã hội chủ nghĩa cho trí thức
luật cũ. Gần 200 người còn sót
lại bao gồm hai nghành luật và Quốc
Gia Hành Chánh cũ rải rác từ
Huế cho đến tận Long Xuyên, Bạc
Liêu, thêm một vài giáo sư tiến
sỹ trường Luật Sài Gòn và
trường Quốc Gia Hành Chánh cùng
nhau miệt mài ngày hai buổi tại một
hội trường chênh chếch Lăng Ông.
Gặp lại nhau mà không nhận ra nhau vì
mỗi con người như đã tàn tạ
cả sức vóc lẫn tâm hồn. Có
người hơn chục năm
qua chỉ biết cuốc đất, làm rẫy
tận Di Linh, Đức Trọng;
có người đen đủi, chai sần vì
làm ruộng, làm vườn
tận Cà Mâu, Châu Đốc... Họ
chịu trở lại lớp học không phải
vì tha thiết được bồi dưỡng
kiến thức luật pháp xã hội chủ
nghĩa, nhưng vì mong ước được
có cơ hội sử dụng cái kiến
thức như đã thui chột của mình
vào xã hội đang kêu gọi “sống,
làm việc theo Hiến Pháp và Pháp
Luật”. Trước khi học các môn
luật chuyên môn như luật hiến
pháp, luật dân sự, luật hình
sự... học viên phải học
môn chính là lý luận chính
trị và triết học Mác-Lênin. Trớ
trêu là đến cuối khóa, trong kỳ
thi tốt nghiệp, gần như cả lớp đều
“trượt” môn chính trị căn
bản này! Chỉ vỏn vẹn chừng hơn
chục anh chị từng là cán bộ,
đảng viên mới qua lọt. Không đậu
được môn xương sống của
lớp bồi dưỡng, tất nhiên gần
90% học viên không thể được
cho mãn khóa. Vụ việc
tới tai lãnh đạo Sở Tư Pháp,
Mặt Trận Tổ Quốc, Bộ Tư Pháp.
Họ cảm thấy có điều gì
không ổn nếu kết quả được
công bố, nên một kỳ thi môn triết
học này được tổ chức lại
và tất cả học viên cuối cùng
cũng đều hoàn thành tốt đẹp
khóa bồi dưỡng pháp lý xã
hội chủ nghĩa và được Trường
Đại Học Pháp Lý Hà Nội
cấp bằng tốt nghiệp! Tôi là
Trưởng lớp của lớp bồi dưỡng
đó, được vinh
dự thay mặt anh chị em lớp học đọc
diễn văn mãn khóa.
Anh Phan Công Trinh, bấy giờ đương
chức Giám Đốc Sở Tư Pháp
thành phố, có mặt trong buổi lễ, thay mặt lãnh đạo thành phố
chúc mừng kết quả học tập của
các học viên và mong những trí
thức luật cũ sau khi được bồi
dưỡng pháp chế xã hội chủ
nghĩa ưu việt biết phát huy khả
năng của mình trong công cuộc xây
dựng một xã hội “sống và
làm việc theo Hiến Pháp và Pháp
luật”. Tiếc rằng về
sau tôi không có cơ
hội sử dụng vốn liếng bồi dưỡng
pháp lý xã hội chủ nghĩa này.
Dù sao, ngẫm lại, tôi vẫn cảm
thấy mừng vì hiện nay cũng có
một số anh chị em trở lại được
con đường phụng sự pháp luật
(cho dù là pháp luật xã hội
chủ nghĩa), bớt đi phần nào cay
đắng của buổi ban đầu. Hiện
nay, ở Huế, một số anh chị cựu
sinh viên trường Luật trước
1975, không còn đi bộ lang thang thất
nghiệp hay làm những nghề linh tinh, họ
được hành nghề luật sư trở
lại dưới các tòa án xã
hội chủ nghĩa. Chắc
rằng họ vẫn còn đi
qua con đường Lê Lợi, ngang qua cây
đa trường luật cũ, lòng bồi
hồi nhớ lại ngôi trường
xưa... Những cựu sinh viên trường
luật trôi dạt khắp
năm châu bốn bể nếu có lần
quay về thăm Huế, chắc ai cũng có
cùng tâm trạng như anh Nguyễn Phi Hoàn,
cũng là một cựu sinh viên của
trường những năm 70, khi đứng trước
ngôi trường và cây đa cổ thụ
xa xưa:
“Có
một lần ta trở lại Huế xưa
Đi giữa nắng trưa trời mùa hạ
Gió lao xao lùa trên cành lá
Đứng dưới sân trường: Trường Luật năm xưa
Dưới cây đa già bóng đổ lưa thưa
Cành vươn ra như muốn chào ta: cậu sinh viên ngày ấy
Ngày ta đi đất trời bão dậy
Ngày trở về tóc đã ngả màu mây...”
Đi giữa nắng trưa trời mùa hạ
Gió lao xao lùa trên cành lá
Đứng dưới sân trường: Trường Luật năm xưa
Dưới cây đa già bóng đổ lưa thưa
Cành vươn ra như muốn chào ta: cậu sinh viên ngày ấy
Ngày ta đi đất trời bão dậy
Ngày trở về tóc đã ngả màu mây...”
Anh
Phi Hoàn ơi, không biết anh viết bài
thơ trên lúc nào, khi cây đa cổ
thụ còn tỏa bóng. Như thế anh
vẫn còn may mắn hơn rất nhiều anh
chị em khác vì từ nay cây đa cổ
thụ của trường chúng ta đâu
còn nữa để tỏa bóng, để
giữ gìn kỷ niệm của chúng ta.
Cây
đa cổ thụ đã bị đào
trốc gốc.
Tôi
xa Huế tính ra đã hơn 30 năm. Hơn
một phần tư thế kỷ với biết
bao thương nhớ vơi đầy. Năm xưa
tôi đã chứng kiến ngôi trường
của mình biến thành phòng tắm,
chuồng heo. Nay nghe tin cây đa cổ thụ
bị đào bới trốc gốc lòng
buồn tan nát.
Trên
một trang mạng dành riêng cho một nhóm
cựu sinh viên Luật Huế, tôi đọc
được thông tin về cây đa cổ
thụ do chị H.T.L., một
cựu nữ sinh viên của trường, cung
cấp. Chị viết e-mail khoảng đầu
năm 2013: “ Năm ngoái,
khi L. chạy lên
trường Luật cũ để dòm một
tí thì cũng là lúc người
ta đang đào rễ cây đa, và xe
cần cẩu chuẩn bị nhổ lên như
nhổ một cái răng sâu... L.
xin họ dừng lại cho L.
chụp một tấm hình làm kỷ
niệm... và người chụp tấm hình
cho L. là anh công
nhân đang đào cây...
Bẳng
đi một thời gian, L.
lại có dịp ngang qua trường xưa,
và lại thấy trước mặt tòa
nhà đã được xây xong vẫn
còn bóng dáng cây đa, nhưng cây
nầy chỉ là nhánh con của cây đa
cổ thụ trường mình, có lẽ:
khi đào gặp chuyện chi đó... (vì
cây đa có ma... nghe nói rứa!) nên
người ta sợ phải trồng lại, nhưng
cây chính đã bị chặt ngọn
trước và tiêu rồi, nên trồng
lại cây nhỏ (mọc ghép với cây
cổ thụ trước đây)”.
Ảnh
chụp cây đa trường Luật đang
bị đào trốc gốc (2012)
Nhìn
tấm hình cây đa đang bị đào
trốc gốc, nằm đổ xiêu trên
mặt đất đang chờ thu dọn để
biến thành củi đốt, không biết
còn có ai động lòng thương
tiếc như lũ cựu sinh viên chúng
ta. Ở một đất nước nạn chặt
cây phá rừng chưa được
ngăn cấm triệt để thì
sá chi một cây cổ thụ choán chỗ
xây dựng những tòa dinh
thự mới! Nhớ lại cách đây
mấy năm (khoảng tháng 12/2006), trường
đại học Berkeley ở California (Mỹ) khi
muốn đốn mấy cây sồi để
chuẩn bị mặt bằng xây dựng trung
tâm huấn luyện thể thao sinh viên đã
gặp phải không biết bao nhiêu là
sự chống đối của
dân chúng và sinh viên vì muốn
bảo vệ những cây sồi đó. Nhiều người đã trèo lên
cây, căng lều ăn ngủ lì trên
cây để phản đối. Vụ việc
đã phải qua 3 vụ kiện để
cuối cùng số phận những cây sồi
mới được quyết định. Cảnh
sát phải được điều động
tới để cưỡng chế những người
cắm trại trên thân cây xuống...
Tôi
không biết khi xây dựng ngôi nhà
cao tầng mới, chủ nhân có được
cấp giấy phép đào bới cây
đa cổ thụ chừng đó tuổi hay
không, nhưng tôi chắc có một
người, dù nay đã là người
thiên cổ, vẫn không thể nào ngăn
được tiếng thở dài vì người
ấy suốt một đời hiểu biết và
trân trọng từng gốc cây, ngọn cỏ
được trồng trong thành phố Huế.
Người ấy là cụ kỹ sư thủy
lâm Nguyễn Hữu Đính. Tôi cũng
mang nỗi buồn nầy gởi tới các
bạn tôi, có người một thời phụ trách công viên và cây xanh
của thành phố Huế. ..
Tôi
có thể tạm dừng bài viết ở
đây để cập nhật thông tin mới
nhất về cây đa. Đầu tháng
7/2013, để chuẩn bị hoàn tất bài
viết và gởi đi, tôi viết email
gởi chị H.T.L. để
xin phép chị cho tôi sử dụng 2 bức
hình của chị vào bài viết của
tôi. Vì cả chị và tôi đều
ghi tên trong cùng nhóm mails nên email của
tôi đều cùng tới được
các anh chị khác. Tôi viết : “...
qua những thông tin của nhóm, tôi nhận
được 2 bức hình về số phận
cây đa trường Luật cũ của
chúng ta. Trong một bức hình có hình
chị đang đứng cạnh cây đa đang
bị đào trốc gốc...”
Liền
sau đó, tôi nhận được ngay
email của anh Q.B.: "xin
đính chính - cây đa bị cắt
xẻn chứ
không phải bị đào trốc gốc.”
Cũng
liền sau đó, email của anh hoangtran_52 khẳng định: “Thưa
các bạn cây đa trường luật
Huế vẫn còn hiên
ngang đứng trong sân trường luật cũ
(ảnh chụp tháng 3/2013).” Nhìn vào
bức ảnh, cây đa vẫn còn nằm
sát một ngôi nhà nhiều tầng,
một phần cành ngọn còn vươn
ra ngoài, nhưng phần sát ngôi nhà
thì bị cắt cụt đầu... Xin phép
anh, cho tôi đăng bức hình nầy lên
để thông tin được sáng tỏ.
Thật
hú hồn, cây đa vẫn chưa hoàn
toàn bị xóa sổ! Xin cảm ơn tấm
lòng của tất cả các anh chị:
chị H. T. L.,
anh Q. B., anh
hoang_tran52. Thế mới biết chúng ta còn
nặng lòng biết mấy với những kỷ
niệm xưa, với ngôi trường cũ,
với bạn bè muôn hướng, muôn
phương...
Thật
ra, cây đa cổ thụ của trường
Luật chúng ta chỉ là một biểu
tượng. Nó cũng có chung số phận
cay đắng như ngôi trường,
như mỗi cựu sinh viên chúng ta. Cây
đa chính là mớ kiến thức đã
được nhiều vị giáo sư khả
kính truyền dạy, đã bám rễ
vào tâm hồn, trí óc bao thế hệ
sinh viên trường Luật. Bốn năm miệt
mài dưới các giảng
đường, lớp học của trường
Luật, chúng ta đã được hấp
thụ một tinh thần thượng tôn pháp
luật, một tinh thần dân chủ trong tranh
luận, học thuật, một tinh thần cạnh
tranh giữa các tổ chức, đoàn
thể, đảng phái, một tinh thần
phục vụ vì công lý và lương
tâm... Những gía trị đó như
vẫn còn sống mãi trong tâm trí
mỗi sinh viên trường Luật, ẩn hiện
tùy lúc tùy hoàn cảnh. Cũng có
giai đoạn, chế độ mới đã
muốn đào tận gốc mớ kiến
thức nói trên. Cũng có lúc họ chỉ muốn “cắt xẻn” để
bồi thêm vào đó một thứ gọi là luật pháp xã
hội chủ nghĩa. Nhưng cũng có lúc,
như hiện nay, họ đang
kêu gọi dân chúng góp ý sửa
đổi Hiến Pháp. Những nguyên tắc
“tam quyền phân lập”, “tư
pháp độc lập”, “đa đảng,
đa nguyên”... đang là những kiến
nghị khó nuốt cho chế độ độc
đảng hiện hành. Đọc Kiến
Nghị và Dự Thảo Hiến Pháp
do 72 vị nhân sĩ, trí thức khởi
xướng với sự ủng hộ ký tên
của đông đảo trí thức, dân
chúng trong và ngoài nước, rõ
ràng tôi thấy nội dung trong Kiến
Nghị và Dự Thảo Hiến Pháp nầy
cũng chính là những
kiến thức mà những
cựu sinh viên trường Luật Huế cũ
được hấp thụ. Trong tinh thần đó
thì cây đa cổ thụ của trường
Luật Huế cũ của tôi, ở một
chừng mực nào đó,
đang đứng hiên ngang không những
trong khuôn viên trường Luật đã
bị xóa sổ, mà còn tỏa bóng
khắp đất nước thân yêu. Vậy
thì, nếu có bị đào trốc
gốc, bị cắt
xẻn, hay vẫn còn
đứng hiên ngang, những
cựu sinh viên trường Luật Huế cũ
có thể tự hào cây đa cổ
thụ vẫn luôn luôn bền vững trong
ký ức và tâm thức chúng ta. ..
Tôi
nhớ vào những năm 1976, 1977… Phòng
Văn Hóa Thông Tin thành phố Huế
đã phân công cán bộ về các
phường xã để sưu tầm di tích
cách mạng, chứng tích tội ác
Mỹ Ngụy, vận động các nơi đó
lập bảng lưu niệm, bảng ghi nhớ.
Nên chăng, hôm nay, những anh chị em cựu
sinh viên trường Luật cũ có nghĩ
tới việc làm cách nào để
có một tấm biển nhỏ khắc ghi dấu
tích (hoặc là chứng tích…!):
Nơi đây từ năm… đến
năm… là trường đại học
luật khoa Huế đã “… quyết
tâm bảo vệ nhân phẩm, tinh thần
dân chủ và những giá trị bất
khả nhượng của con người trong một
giai đoạn đầy khói lửa và
đau thương của lịch sử Việt
Nam…”. Giá mong ước trên trở
thành hiện thực thì nơi cổng trụ
rêu phong của lối vào trường Luật
cũ, hoặc dưới gốc cây đa còn
sót lại một phần như tấm hình
trên, tấm biển nhỏ đó chắc
cũng an ủi được chút gì cho
bao thế hệ giáo sư, nhân viên, và
sinh viên trường Luật cũ của chúng
ta…
Trần Đình Sơn Cước
(7/2013)
Ghi chú: Về
những bức hình từ trên
xuống: số 1 và số 6 đã được
sự đồng ý cho phép sử dụng
của chị H.T.L.
Các
hình số 2, 3, 4 và 5 là của người
viết.
Hình
số 7 của anh hoang_tran52 . Nhân đây
xin gởi lời xin phép đến tác
giả.