Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

Thời sự y học số 393 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ SỰ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ LÀM TRẦM TRỌNG BỆNH ALZHEIMER.

 Chúng ta đã từng nghi ngờ sự ô nhiễm bởi những hạt nhỏ (particules fines) tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những bệnh thoái hóa thần kinh (maladie neurodégénérative). Một công trình nghiên cứu, dựa trên những dữ kiện về sức khỏe của 9,8 triệu người Mỹ, tuổi hơn 65 và sống trong 50 thành phố lớn của bờ biển đông bắc của Hoa Kỳ, phát hiện rằng sự ô nhiễm cũng có thể gia tốc sự tiến triển của những bệnh lý này. Để đi đến kết luận này, kíp của Marianthi-Anna Kioumourtzoglou, ở trường y tế công cộng Havard, đã khảo sát mối tương quan giữa nồng độ ô nhiễm những hạt nhỏ mỗi năm trong mỗi trong số 50 thành phố của công trình nghiên cứu và lần nhập viện đầu tiên của những người già bị bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson hay sa sút trí tuệ (démence), sự nhập viện đầu tiên này được xem như phát hiện sự tiến triển bệnh lý của họ. Đối với mỗi gia tăng 1mcg/m2 nồng độ những hạt nhỏ, nguy cơ một nhập viện đầu tiên đối với bệnh Alzheimer gia tăng 15% ; đối với bệnh Parkinson và sa sút trí tuệ 8%. Làm sao giải thích mối liên hệ này ? Nhà nghiên cứu đưa ra một giả thuyết chính : ” Sự ô nhiễm không khí gây đồng thời những hiện tượng viêm và stress oxydatif. Thế mà ta đã chứng minh rằng những hiện tượng này có liên quan trong sự tiến triển của bệnh thoái hóa thần kinh (neurodégénérescence).
(SCIENCES ET VIE 3/2016)

2/ MỘT ĐỘNG TÁC ĐƠN GIẢN HẠN CHẾ NHỮNG DI CHỨNG CỦA MỘT TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO. Thở trong một masque à oxygène ngay những dấu hiệu đầu tiên của một tai biến mạch máu não có thể hạn chế những di chứng của tai biến này. Phương pháp này dẫu sao đã chứng tỏ hiệu quả ở những con chuột bị tai biến mạch máu não thiếu máu cục bộ (AVC ischémique) (do tắc một động mạch não). Bị lấy mất oxy, chừng nào động mạch bị bít, các tế bào thần kinh có nguy cơ bị tiêu hủy do bị ngạt, điều này có thể gây nên những phế tật nặng nề (liệt, rối loạn ngôn ngữ…). Để hạn chế những nguy cơ, một kíp những nhà nghiên cứu đã cho các con chuột thở oxy ngay khi động mạch bị bít và cho đến khi nó được khai thông 15 phút sau đó : các con chuột đã không bị một biến chứng vận động nào và não bộ của chúng gần như nguyên vẹn.” Trong trường hợp tai biến mạch máu não, não không bao giờ hoàn toàn bị ngạt nhờ nhiều nối kết động mạch của nó. Thở trực tiếp oxy kéo dài sự sống còn của những neurone bị đe dọa “, Jean-Claude Baron (Inserm), người chỉ đạo các công trình, đã tóm lược như vậy. Nếu chiến lược này tỏ ra có hiệu quả ở người, cho các nạn nhân bị tai biến mạch máu não thở oxy có lẽ trở thành một động tác cấp cứu cũng tự động như xoa bóp tim.
(SCIENCES ET VIE 3/2016)
3/ CHỈ MỘT NẾP GẤP CỦA NÃO CŨNG ĐỦ XÁC ĐỊNH BỆNH TỰ KỶ.Trong khi não bộ của chúng ta có hàng ngàn những nếp gấp, chỉ một trong số những nếp gấp này dường như khác ở những người bị bệnh tự kỷ (autisme). Thật vậy, kíp của Christine Deruelle (đại học Aix-Marseille/CNRS) đã phát hiện một bất thường trong não của những em bé bị bệnh tự kỷ từ 2 đến 10 tuổi : một nếp gấp đặc biệt trong aire de Broca (một vùng có liên quan trong ngôn ngữ và sự truyền đạt, những chức năng này rất bị biến thái ở những bệnh nhân tự kỷ) tỏ ra ít sâu hơn so với những trẻ khác. Các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện những dị biệt trong bề sâu của nếp gấp giữa các trẻ em tự kỷ đã phát triển ngôn ngữ hay không.
(SCIENCES ET VIE 3/2016)
4/ MỘT LOẠI KÝ SINH TRÙNG KÍCH THÍCH KHẢ NĂNG SINH ĐẺ CỦA CÁC PHỤ NỮ.
Hành vi, khí chất, hình thái ..ta đã biết rằng những ký sinh trùng có thể ảnh hưởng những ký chủ của mình bằng rất nhiều cách. Nhưng chúng cũng có thể kích thích khả năng sinh sản của các phụ nữ ! Bằng cách sử dụng những dữ kiện thu được trong 9 năm ở 986 phụ nữ Bolivie, các nhà nghiên cứu Mỹ đã khám phá rằng những phụ nữ, bị nhiễm bởi một ký sinh trùng được gọi là ascaris, thụ thai nhanh hơn những phụ nữ không bị nhiễm nó. Độ chênh lệch giữa hai nhóm là 6 tháng. Các nhà nghiên cứu đã tính toán rằng nhiễm ký sinh trùng trung bình sẽ làm sinh thêm hai trẻ nữa. Một hiệu quả có thể được giải thích bởi tác dụng kháng viêm nhẹ của ký sinh trùng này, vì lẽ một phản ứng viêm quá mức dường như làm giảm những cơ may mang thai.
(SCIENCES ET VIE 2/2016)
5/ VÀI VI KHUẨN RUỘT BẢO VỆ GAN CHỐNG LẠI NHỮNG TÁC DỤNG CỦA RƯỢU.Tại sao vài bệnh nhân nghiện rượu phát triển những bệnh của gan (xơ gan, ung thư…) còn những bệnh nhân khác thì không ? Một phần của câu trả lời được dấu trong ruột của những vi khuẩn này. Thật vậy các nhà nghiên cứu Pháp đã chứng minh rằng những tác dụng của rượu lên gan tùy thuộc vào thành phần của khuẩn chí ruột (microbiotie intestinal). Để chứng tỏ điều đó, họ đã chuyển các vi khuẩn của những bệnh nhân nghiện rượu, đã phát triển hay không một viêm gan do rượu, đến ruột của các con chuột, rồi họ đã cho những con chuột này những lượng mạnh éthanol trong 5 tuần. Kết quả : chính những con chuột đã nhận những vi khuẩn của những bệnh nhân bị viêm gan phát triển nhiều những rối loạn liên kết với bệnh này (viêm và hoại tử gan, tăng thẩm thấu ruột…) hơn những con chuột đã nhận những vi khuẩn của những bệnh nhân không bị bệnh. ” Vài vi khuẩn “tốt” có thể bảo vệ chống lại độc tính của rượu bằng cách hạn chế tính thẩm thấu của ruột và bằng cách làm dễ sự sản xuất một loại mật tiêu hóa rượu tốt hơn, Gabriel Perlemuter, người điều khiển các công trình nghiên cứu, đã xác nhận như vậy. Chúng tôi hy vọng, bằng cách nhận diện chúng, trong tương lai có thể phòng ngừa sự xuất hiện của các bệnh gan ở những bệnh nhân nghiện rượu, thí dụ bằng những probiotiques.
(SCIENCES ET VIE 2/2016)
6/ ĐIỀU TRỊ ĐIẾC GIÚP CHO NÃO BỘ Một thính lực kém có thể gây trầm cảm ở người già và cô lập ông ta về mặt xã hội. Lần đầu tiên, một công trình nghiên cứu của Inserm đã chứng minh rằng rối loạn này cũng được liên kết với một sa sút trí tuệ (déclin cognitif) quan trọng ở những người trên 65 tuổi. Trong 25 năm, các nhà nghiên cứu đã theo dõi 3777 lão niên và đánh giá capacité cognitive của họ : nhóm bị rối loạn thính giác và không mang máy nghe có một sa sút trí tuệ quan trọng hơn nhóm có đeo máy. Ngoài ra, ở những người đeo máy, sự sa sút trí tuệ tương tự với sa sút trí tuệ của những người đã không bị rối loạn thính giác. (Journal of American Geriatrics Society, octobre 2015)
(SCIENCES ET VIE 12/2015)
7/ NÃO BỘ CỦA NHỮNG TRẺ SINH NON PHÁT TRIỂN SỚM HƠNNhững ảnh chụp bằng cộng huon từ (IRM) gây ấn tượng. Não bộ của một trẻ sinh non vừa sinh ra đời rất khác với não bộ của một em bé ở cùng giai đoạn phát triển, nhưng còn ở trong bụng mẹ. ” Ở cùng tuổi thai nghén như nhau, não của những trẻ sinh non có nhiều nếp gấp hơn, tiến triển hơn não của thai nhi”, Julien Lefèvre, một trong những nhà nghiên cứu của đại học Aix-Marseille đã chỉ rõ như vậy. Ông đã quan sát vỏ não của 27 trẻ sinh non và của 14 thai nhi. ” Điều này có nghĩa rằng để kiểm tra tiến triển não bộ của những trẻ sinh non tháng, khing nên chỉ căn cứ trên điều xảy ra một cách bình thường trong tử cung”, đồng nghiệp của ông Da vid Germanaud (Assistance publique-Hopitaux de Paris) đã thêm vào như vậy. Đối với thầy thuốc chuyên khoa thần kinh nhi đồng này, ” những khác nhau được quan sát giữa thai nhi và trẻ sơ sinh sinh non gợi ý rằng sự đảo lộn to lớn của sự sinh đẻ tác động một cách nhanh chóng lên kiến trúc não, một hiện tượng cho đến nay không được nghi ngờ “. Như thế có phải kết luận rằng não của những trẻ sinh non phát triển nhanh hơn ? Không phải đúng như vậy, bởi vì mặc dầu dường như não của trẻ sinh non lúc đầu đi trước một bước, nhưng những công trình nghiên cứu khác cho thấy rằng khi một trẻ sinh non ra đời vào lúc được dự kiến ban đầu, trái lại não của nó có vẻ ít những nếp nhăn hơn não của một trẻ sinh đủ tháng.
(SCIENCES ET VIE 11/2015)
8/ NGƯỜI TA ĐÃ TÌM THẤY MỘT NGUYÊN NHÂN SINH HỌC CỦA BỆNH Ù TAINhững tiếng ù hay những tiếng rít vang lên trong đầu trong khi không có một tiếng động nào…Mặc dầu người ta đã chứng minh rằng những trường hợp ù tai (acouphène) có thể được gây nên bởi một sự tiếp xúc âm thanh có cường đó quá mạnh (concert, marteau-piqueur…), nhưng không ai biết tại sao chúng xuất hiện ở vài người, trong khi những người khác dường như được bảo vệ. Kíp của Shuang Li (đại học Pittsburg, Hoa Kỳ) mang lại những yếu tố đầu tiên của câu trả lời. Trong lúc nghiên cứu tai trong của chuột, các nhà nghiên cứu đã khám phá rằng chức năng của vài tế bào của thính giác bị rối loạn ở những động vật nhạy cảm nhất với ù tai. Sau khi nghe một tiếng động rất mạnh, những kênh nhỏ ở bề mặt của những tế bào này, có nhiệm vụ để các ion potassium vào và ra, mất đi tính hiệu quả của chúng. Thế mà sự lưu thông kém này của ion K chỉ kéo dài ở những động vật gặm nhấm phát triển sau đó chứng ù tai, như đã được phát hiện bởi một phân tích bằng chụp hình ảnh hoạt động não của chúng.
(SCIENCES ET VIE 11/2015)
9/ MỘT THUỐC CHỐNG BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG DƯỜNG NHƯ CHỮA LÁNH MỘT UNG THƯ NAN Y.Một thuốc chống bệnh đái đường đơn giản có thể cách mạng hóa điều trị những bệnh nhân bị một thể nan y của ung thư máu, leucémie myéloide chronique. Các nhà nghiên cứu Pháp đã chứng tỏ rằng pioglitazone (Actos), thuốc tăng cường tác dụng của insuline, làm gia tăng hiệu quả của những điều trị hiện nay đối với leucémie myéloide chronique, do đó dấy lên niềm hy vọng chữa lành hoàn toàn loại ung thư này. Thuốc quy chiếu được sử dụng hiện nay (imatinib hay Glivec) rất có hiệu quả, nhưng nó phải được sử dụng suốt đời. Thật vậy, một thiểu số những tế bào ung thư đề kháng lại nó và nằm yên ngủ, như thế có nguy cơ được kích hoạt trở lại khi ngừng điều trị.” Pioglitazone đánh thức những tế bào gốc ung thư này (cellules souches cancéreuses), khi đó lại bắt đầu phân chia và trở nên nhạy cảm với điều trị cổ điển “, Stéphane Prost đã giải thích như vậy. 27 bệnh nhân của centre hospitalier de Versailles đã theo điều trị phối hợp này. Sau một năm, hơn một nửa những bệnh nhận được điều trị như thế đã không có một dấu vết ung thư nào có thể được phát hiện. Và 3 năm sau khi ngừng thuốc chống bệnh đái đường, căn bệnh đã không tái xuất hiện. Đối với nhà nghiên cứu, ” chiến lược này, nhắm vào những tế bào gốc ung thư, có thể được áp dụng cho những loại ung thư khác”.
(SCIENCES ET VIE 11/2015)
10/ ĂN SẮT KHÔNG LUÔN LUÔN LÀM LỚN NHANH HƠNGạo được làm phong phú vitamine và các muối khoáng có thể…làm chậm lại sự tăng trưởng của các trẻ em ! Đó là điều được phát hiện bởi một công trình nghiên cứu của IRD, được thực hiện trên 2000 trẻ em Cambodge. Giải thích ? Sự thêm sắt vào làm tăng gấp đôi nguy cơ nhiễm các ký sinh trùng ruột. ” Sắt được sử dụng có ưu điểm không biến đổi khẩu vị của gạo, nhưng nó được hấp thụ kém, nhà nghiên cứu Frank Wieringa đã xác nhận như vậy. Vậy sắt vẫn ở trong ruột, ở đó nó làm lợi cho ký sinh trùng hơn là cho ký chủ.” Vậy các thức ăn được làm phong phú phải được sử dụng một cách thận trọng, đặc biệt trong những vùng ở đó có dịch ký sinh trùng ruột.
(SCIENCES ET VIE 3/2016)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/3/2016)