NHỮNG BÀI THƠ CŨ

Nguyễn Lương Tuấn

Tôi thích những bài thơ cũ. Nó gợi nhắc cho tôi một thời đời sống với những trằn trọc tra vấn của cái tôi đầy xáo động, bấp bênh. Như con nước vỡ bờ, như đợt sóng gào thét, những người lớn tuổi hơn tôi, bằng tôi, đồng hành vào đời. Sống, hiện hữu đối diện với bối cảnh đất nước chiến tranh. Sự sống và chết như một lằn ranh vô hình dễ bị phá vỡ. Mỗi bài thơ là một sinh mệnh. Tôi nghe, tôi đọc như nói với chính mình.
Đó là ngôn ngữ thơ – Tuổi trẻ tội nghiệp, cô đơn – Một thời để yêu, một thời để chết.
Chiến tranh đi qua. Thế hệ chúng tôi mất tất cả. Tôi còn lại gì?
Tình yêu? Sự nghiệp? Những người thân yêu?
Tôi mất tất cả,
Kể cả những bài thơ.
Những bài thơ cũ với tôi mãi mãi là một hoài niệm, một phần đời mà tôi đã bị đánh mất. Đó là những bài thơ trước 1975, những bài thơ tình hồn nhiên, tội nghiệp, ngụp lặn trong chiến tranh.
Các thi sĩ một thời tôi say mê: Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Thanh Nam, Thạch Chương, Vương Tân, Dương Kiền, Cao Thoại Châu, Hoài Tuyết Trang, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Miên Thảo, Tần Hoài Dạ Vũ, Cao Thị Vạn Giã, Bùi Giáng, Chu Vương Miện, Mường Mán, …Rất nhiều, rất nhiều.
Đó cũng là giai đoạn mà các tạp chí văn nghệ như trăm hoa đua nở làm phong phú hóa sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam.: Tạp chí Sáng tạo, thế kỷ hai mươi, Hiện đại, Nghệ Thuật, Mai, Văn, Văn học, …
Tìm lại được một bài thơ, đọc được một bài thơ cũ, tôi sung sướng vô cùng.
Nếu trong âm nhạc, ngôn ngữ được chuyển vận theo giai điệu. Nó là một loại ngôn ngữ kép của nhạc điệu. Bài hát khi đã được chuyển vận và hát cho người nghe. Nó không còn cô đơn. Nó được đi vào lòng khán giả và được ái mộ. Ngôn ngữ thơ, bản chất  cô đơn, mặc dù nó có âm thanh của nó nhưng đó là hơi thở của tận cùng sâu thẳm trái tim. Nó nói chuyện với từng cá thể. Thơ tìm sự hiệp thông trong nỗi cô đơn tận cùng.
Tạp chí Sáng tạo bằng những cuộc Hội thảo, đối thoại giữa những nhà thơ, nhà văn đã khẳng định như một tuyên ngôn: Ngôn ngữ thơ là một vận động, phá bỏ quy ước rào cản. Nó hoàn toàn tự do. Nhóm Sáng Tạo quay lưng với thơ mới. Người làm thơ là người chơi với con chữ. Sắp xếp, cấu trúc ngôn ngữ để khám phá những chân trời mới. Người làm thơ là người không đi theo lối mòn cũ. Y khám phá những con đường mới.
Tôi nhớ ngày đó trong một tản văn của Bùi Giáng ở tạp chí Mai, có hai câu thơ trích dẫn đầu truyện của Cao Thị Vạn Giã: “Mù sương phi cảng não nề. Thôi anh ở lại buồn về em mang”. Lời thơ làm tôi thảng thốt như mình chuốc lấy một nỗi buồn. Ngôn ngữ thơ không mới, nhưng hình ảnh quá ư sống động, bàng bạc một nỗi lạnh lẻo: hình ảnh sân bay đầy sương mù được gán cho một tỉnh từ “não nề” làm nổi bật tâm trạng của người ra đi. Từ “thôi” như một dấu ngắt diễn tả sự quay quắt trước cảnh biệt ly. Từ “buồn về” thể hiện cụ thể tâm trạng của tác giả: “Buồn về em mang”.
Chỉ có hai câu thơ, vậy mà tôi nhớ mãi, không sao quên được, đã trên 40 năm rồi còn gì. Cái độc đáo ở đây là Cao Thị Vạn Giã thể hiện bằng thơ lục bát, và các từ không có gì mới, nhưng sự sắp xếp các từ, vị trí, cơ cấu của từ đã làm bài thơ trở nên độc đáo, mới.
Một điều rất thú vị, hôm kia tình cờ lang thang trên mạng, tôi đã tìm đọc được toàn bài thơ này:
Tiễn chân anh tận phi trường
Lỗi đi. Lỗi ở.
Mười phương lỗi về.
Mù sương phi cảng não nề
Thôi anh ở lại buồn về em mang
Tiễn anh một chén rượu tàn
Một bàn tay nắm
Một hàng lệ mau
Cuộc cờ thế sự binh đao
Phút giây tái ngộ ngàn sau biết còn!
Môi em trong cảnh hao mòn
Một anh đất khách nhớ tròn tháng năm
Trời Tây rẽ bước âm thầm
Ngàn năm mỏi cánh chim bằng tha hương.
Ta lưu ý Cao Thị Vạn Giã không quan tâm cấu trúc bài thơ theo thể thơ lục bát. Sự ngắt ở câu 8 bằng phân đoạn 2 câu 4, sang hàng đã làm cho giai điệu lục bát trở nên mới, xây dựng hình ảnh, ý tưởng sống động.
Thơ tình của các bạn trẻ trước 1975 có đặc điểm là cách xử dụng các con chữ, sự tạo hình ảnh độc đáo đến lạ thường. Bài thơ lạ, hình ảnh mới mà lại không cải lương, không sáo mòn và không “sến”.
Như bài
Nỗi tuyệt vọng huy hoàng
( Hoài Tuyết Trang)
1.
Thôi còn chi mà buổi chiều lên đồi ngồi hát
xin cho em niềm tuyệt vọng huy hoàng
bây giờ đôi cánh đêm đã mọc
và biển đã mênh mông
tôi nghe tiếng nói từ những vì sao khuya thật lạnh
2.
đêm nói với em những tử thi của ngày
có bao giờ có bao giờ hồi sinh
ôi giấc ngủ mặt trời!
tôi buồn khóc
3.
ngày mai khi linh hồn mình vật vờ bằng biển cả trên một hoang đảo
cho mỗi lần đàn chim xoè cánh hồng
trên những đọt cây cao mùa xuân chết lá
hỡi thanh xuân sao mãi buồn thảm
có phải không đêm đã quá mênh mông?
và ngày không là sa mạc nóng bỏng
để dấu chân chim khơi buồn trên cát
có phải không mặt trời đã quá cao và chói sáng?
vẫn không làm thức giấc những tử thi nằm chết
thôi trở về mà van nài làm kiếp hướng dương
buổi sáng mặt trời ở phương đông
những cánh hoa không nở
4.
mùa thu có hoa trắng trổ chân thành
5.
còn gì không mà buổi chiều lên đồi ngồi khóc
xin cho em niềm tuyệt vọng đó huy hoàng.
Một điểm cốt yếu nữa trong thơ tự do là THƠ LÀ Ý THỨC. Nhà thơ không đi tìm thiên nhiên để “ru với gió, vơ vẩn cùng mây” như khách si tình với cây đàn muôn điệu. Ở đây, nhà thơ bỏ cả thiên nhiên, bỏ cả ái tình lãng mạn để trở về với thực tại trước mặt.
Thanh Tâm Tuyền quả quyết: Trong thơ hôm nay, hoặc là thiên nhiên, không được nhắc đến, nhường chỗ cho những vỉa hè, cột đèn, gạch ngói, khối sắt, khối thép, da thịt tay chân, mặt mũi, hoặc là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu, nếu không muốn nhập vào ý thức.
Nói như vậy không có nghĩa là thơ tự do không còn nói đến ái tình với một thái độ đi tìm tình ái để ca tụng, tôn sùng nó như nguồn gốc của hạnh phúc hay đau khổ, trái lại thơ tự do coi ái tình cũng chỉ là một trong những con đường khám phá ý thức, thức tỉnh trước cuộc đời.
Thanh Tâm Tuyền nói: ”Tình ái cũng bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức”.
Điều cốt yếu trong thơ tự do là cấu trúc ngôn ngữ. Ngôn ngữ đơn giản nhưng nhờ cấu trúc, hình ảnh, mới, lạ.
Chính hình ảnh đập vào ý thức. Người đọc như phản tỉnh. Y buộc phải suy nghĩ, đặt vấn đề. Trong thơ tự do, tình yêu, thiên nhiên chỉ là công cụ để nhà thơ khám phá đời sống như Thanh Tâm Tuyền đã quả quyết.
Thập niên 60 phong trào thơ tự do nở rộ, nhóm Sáng Tạo với những người đi tiên phong mà đại biểu tiêu biểu nhất, thủ lãnh phong trào là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nổi bật nhất là tập thơ “Liên đêm mặt trời tìm thấy”. Có thể kể một số thi sĩ tài hoa, nổi tiếng thời bấy giờ như Duy Thanh, Thạch Chương, Mai Thảo, Quách Thoại, Vương Tân, Dương Kiền, Tạ Tỵ, …
Nhà thơ Chinh Yên chỉ với vài hình ảnh đã làm rõ được thân phận con người, biểu tỏ một thái độ sống:
Thái độ
Cuộc đời như điếu thuốc
Không hút cũng cháy vèo
Cuộc đời như điếu thuốc
Không hút cũng không sao.

Thân phận
Một người ngồi một mình
Một mình cũng buồn quá
Hắn đánh cờ một mình
Một mình cũng buồn quá
Hắn bỏ đi một mình
Nhớ về những bài thơ cũ là nhớ về một thời kỳ, nhớ về thuở hoàng kim của đất nước, trong đó biết bao nhiêu hình ảnh thân quen mà tôi đã sống cùng, sống với, tôi đã được giáo dục …
Xin cho tôi được nói lời tri ân một thời kỳ, một giai đoạn lịch sử.