Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Sưu tầm: 6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ - Gái Huế - Tiếng Huế...


   Con gái Huế có những tính cách như thế nào và có nên lấy họ làm vợ không, dưới mắt một chàng trai?

 
1. Con gái Huế sống nền nếp và gia phong 

 
Con gái Huế luôn sống có phép tắt trong ứng xử với bố mẹ và người lớn trong gia đình. Những nề nếp ấy đã trở thành khuôn phép truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô gái Huế nào khi đi ra ngoài cũng đều xin phép gia đình, có khách thì phải cúi chào, và đặc biệt con gái Huế không được đi chơi đêm quá 21h. 

 
2. Con gái Huế sống thân thiện và đặc biệt thiện tâm 

 Con gái Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Họ luôn luôn quan tâm, hỏi han và giúp đỡ người khác những lúc gặp khó khăn. Và đặc biệt, người lạ gặp con gái Huế rất dễ dàng bắt chuyện và hòa nhập vào câu chuyện một cách vui vẻ vì họ luôn luôn cởi mở, thân thiện, gần gũi và hiếu khách. Con gái Huế đặc biệt sống rất hiền, thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức. 
 
    
3. Con gái Huế kín đáo và trầm lặng 

 Họ là những cô gái rất trầm lặng và ít nói, sống luôn luôn giữ kẻ, hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày với ba mẹ, người lớn tuổi và bạn bè. Họ không bao giờ muốn mọi người biết về những khó khăn mà họ đang gặp vì không muốn để ai bận tâm. Con gái Huế không để xảy ra điều to tiếng, hay gây chuyện buồn cho khách khứa láng giềng. 

 
4. Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu 
  Con gái Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản để cân bằng tiền bạc, họ luôn cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc vì họ suy nghĩ đến tương lai lâu dài. Họ không giống nhiều người nhiều nơi khác, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm chừng nào thì tiêu chừng đó. 

 
5. Con gái Huế dịu dàng và e ấp 

 Người con gái Huế từ lâu đã nổi tiếng là dịu dàng với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng. Con gái Huế đi lại nhẹ nhàng và ăn nói nhỏ nhẹ. Dường như mỗi người con gái Huế đều mang trong mình một nét gì đó rất đỗi kín đáo và e ấp. Có rất nhiều chàng trai xứ khác khi đến Huế đều cảm nhận được đó là điều đầu tiên. 

 
  6. Con gái Huế cầu kì trong chế biến ẩm thực 

 Với tất cả mọi người dân xứ Huế, nấu ăn là thể hiện sự khéo léo và nghệ thuật, chính vì thế, họ luôn coi trọng việc trang trí món ăn. Với quan niệm: “ăn” trước hết là “ăn bằng mắt”, người con gái Huế rất chú trọng vào việc làm cho món ăn không chỉ ngon mà còn phải bắt mắt và thu hút. 

 6 lý do đó đã đủ thuyết phục để bạn chọn một cô gái Huế làm vợ chưa? Tính cách của con gái Huế còn là một “kho tàng bí ẩn” mà bạn hãy chính là người tìm hiểu nó nhé. 

 
Theo Buzz New


Tiến Đạt

Con sông dùng giằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Đó là hai câu thơ mà nhà thơ Thu Buồn diễn tả về tính cách của con người xứ Huế với đề tài tự một dòng sông êm đềm, thợ mộng – dòng Hương giang.
Như chúng ta đã biết, có rất nhiều yếu tố để tạo nên một sắc thái văn hóa Huế riêng. Đó có thể là những giá trị văn hóa lịch sử, những danh thắng thiên nhiên kỳ thú, những công trình kiến trúc nhuốm mùa thời gian,…Tính cách người Huế cũng góp một phần tạo nên sắc thái văn hóa Huế riêng đó. Vậy tính cách người Huế được thể hiện như thế nào? Những yếu tố nào đã tạo nên những nét tính cách đó, chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

            Những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Huế tôi đã cảm thấy rất ấn tượng không chỉ vì vẻ đẹp của những thắng cảnh thiên nhiên (sông Hương, núi Ngự), sự cổ kính của những đền đài, lăng tẩm,…Tôi còn bị “cuốn hút” bởi con người Huế với tính cách dịu dàng, dễ thương pha lẫn sự kín đáo e ếp, với giọng nói “dạ, thưa” đến say lòng. Từ tất cả sự lôi cuốn đó, tôi đã quyết định gắn bó với Huế và thử tìm sự lý giải về tính cách của người Huế là như thế nào?
Trong con mắt của một người xứ Bắc tuy chưa thực sự hiểu sâu về người Huế, nhưng tôi nhận thấy tính cách con người Huế được thể hiện qua những điểm sau:
Người Huế gần gũi và thân thiện. Người Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Luôn nhận được sự quan tâm, hỏi han và giúp đỡ của người Huế những lúc gặp khó khăn. Đó là điều đầu tiên tôi cảm nhận được khi tôi ở trong khu nhà trọ trong thời gian đầu tôi vào Huế.
Người Huế kín đáo và trầm lặng. Họ ít nói, sống luôn giữ kẽ và hết sức kín đáo trong lời ăn, tiếng nói hằng ngày, họ thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng.
Người Huế đi ngủ sớm. Huế không sống nhiều về đêm như những thành phố lớn khác, khoảng 10h kém là tất cả đã về nhà, không sinh hoạt gia đình thì làm việc hoặc đi ngủ sớm, đường phố Huế về đêm chủ yếu là khách du lịch và sinh viên ngoại tỉnh, những người vẫn chưa thể quen với nếp sinh hoạt đó. Ở nhiều khu trọ cho sinh viên, chủ nhà luôn thông báo cho sinh viên đến ở trọ giờ giới nghiêm là 22h. Huế yên bình nhưng về đêm thì càng yên bình hơn nữa, người ta có thể ngồi trầm tư mà không lo ai quấy rối giữa đêm.
Người Huế sống hoài cổ và thủ cựu. Điều này thể hiện ở cái cách mà người Huế tiếp nhận cái mới, cái lạ, tất cả những gì mới và lạ du nhập vào Huế đều cần phải có một thời gian dài, phải nói là rất lâu mới có thể bám rễ và phát triển ở Huế, phải trải qua một quá trình thẩm thấu, chọn lọc thật kĩ thì những cái đó mới được người Huế đón nhận, từ nghệ thuật cho đến văn hóa, thể thao và nhiều cái khác nữa. Chẳng hạn, ở Huế người ta chuộng nghe nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn hơn là nhạc trẻ - nhạc thị trường, thị trường nhạc trẻ ở Huế không sôi động như các thành phố khác. Văn hóa cũng vậy, phần đông người Huế vẫn quý trọng mái tóc và tà áo dài của người con gái, nhẹ nhàng và thanh thoát, tất cả mọi người đều quý trong những giá trị truyền thống, những cái cốt lõi, cái tinh túy đã song hành với họ trong cuộc sống.
Người Huế sống nền nếp và gia phong. Bước vào các gia đình Huế người ta sẽ cảm nhận ngay được rằng người Huế sống rất có phép tắc từ già tới trẻ, từ đàn ông con trai đến đàn bà con gái, tất cả tuân theo một khuôn phép đã có trước đó từ rất lâu đó chính là truyền thống nền nếp gia phong. Người lớn tuổi được kính trọng và đề cao, lớp trẻ chỉ cần đi vào nhà thấy khách đến chơi là phải thưa, đi thì phải xin phép gia đình và khách. Người đàn ông trong gia đình được đề cao, đặc biệt là người chồng, người cha có một ví trị hết sức quan trọng, là trụ cột của cả gia đình. Người cha, người chồng trong gia đình có quyền quyết định mọi chuyện của gia đình, ý kiến của gia đình và đặc biệt của người cha ảnh hưởng rất nhiều đến sự lựa chọn của con cái trong gia đình.
Người Huế sống tiết kiệm và chắt chiu. Khác hẳn như ở miền Nam, chỉ có Huế là thành phố không chịu ảnh hưởng văn hóa tiêu dùng phương Tây trong thời kì chủ nghĩa thực dân mới nô dịch nước ta. Khác hẳn với thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh, người Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản, cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc, đối với Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thì người ta không phải suy nghĩ nhiều đến thế, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm hôm nay thì tiêu hôm nay, ngày mai tiêu ngày mai. Thời tiết khắc nghiệt, mưa bão nhiều, không thuận lợi trong phát triển kinh tế, thiên tai thất thường khiến cho người Huế luôn tích trữ lương thực và đặc biệt là tiền bạc cho những lúc cần dùng đến, rồi ốm đau bệnh tật,… tất cả tạo nên tính cách rất riêng của Huế.
Người Huế cầu kì trong chế biến ẩm thực. Với người Huế, nấu món ăn là để thể hiện sự đam mê nghệ thuật. Với quan niệm “ăn” trước hết là “ăn bằng mắt”, nên người phụ nữ Huế rất dụng công trong việc tạo hình các món ăn một cách nghệ thuật, tạo nên sự truyền cảm mạnh mẽ mỗi khi ngồi vào bàn tiệc. Tất cả kinh nghiệm chế biến được truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ khác và ngày càng hoàn thiện hơn.
Người Huế sống thánh thiện. Đây là đánh giá của phần đông những người được hỏi, theo họ người Huế sống rất hiền lành, họ thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức cho quan cháu.
Người Huế sống gần gũi với thiên nhiên. Điều này được thể hiện cụ thể nhất trong lối kiến trúc Nhà Vườn mà chỉ ở Huế mới có. Những người đến Huế rất thích những ngôi nhà vườn của Huế, những ngôi là rợp bóng mát của cây trái.
Đi tìm lý giải tính cách của người Huế: Để có được sự độc đáo riêng về những nét tính cách đó chắc hẳn phải có rất nhiều yếu tố chi phối. Vậy đó là những yếu tố nào?

            Yếu tố địa lý
Huế nằm trên dải đất miền Trung đầy nắng và gió với bao khó khăn trong cuộc sống. Phía Nam của Huế là đèo Hải Vân bức tường thành tự nhiên đã tạo nên cho Huế một kiểu khí hậu mà chỉ có ai yêu Huế, sinh ra và lớn lên ở Huế mới chịu đựng nổi: mưa dầm dề triền miên và nắng cháy da cháy thịt. Điều kiện thiên không ưu đãi khiến cho người Huế phải sống chắt chiu, tiết kiệm để có thể tồn tại trên mảnh đất này. Thiên tai, bão lũ thường xuyên khiến cho người Huế phải sống gần gũi nhau hơn, quan tâm nhau nhiều hơn để cùng nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn, để khi tắt lửa tối đèn thì còn có nhau.

            Yếu tố Lịch sử
Huế trong hơn 300 năm là thủ phủ của Đàng Trong và hơn 140 năm là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam nên vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ phong kiến, thể hiện cụ thể ở tính hoài cổ, thủ cựu, nền nếp, gia phong và cầu kì trong chế biến ẩm thực.

            Yếu tố Tôn giáo
Huế là trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với hàng trăm chùa lớn nhỏ. Người Huế từ nhỏ đã biết chắp tay cúi lạy, đã biết niệm Nam mô A di đà Phật và được đến với chùa vào các dịp rằm hay lễ tết nên tư tưởng Phật giáo thuần nhuần trong người Huế. Ở Huế có mô hình gia đình Phật tử, đây là đặc trưng mà không nơi nào có được. Tư tưởng Phật giáo từ bi hỉ xả, khuyên mọi người làm việc thiện, tu tâm, tích đức cho đời sau. Chính vì vậy mà người Huế sống thánh thiện và gần gũi với thiên nhiên cây cỏ.

Kết luận
Tính cách là một trong những nét đặc trưng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, và là cái để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho mỗi du khách khi đến thăm vùng đất đó, dân tộc đó. Tính cách người Huế thực sự là một “kho tàng lớn” về sự thú vị cho mọi người dần khám phá.



*********************************************************************************



Thục nữ ... xứ Huế


Tôn Thất Hứa

Trải trên mảnh giấy những tâm tình chìm lặng trong ký ức tôi sau hơn nửa thế kỷ làm người, 
Thân tặng các tiểu sư muội & các nữ sinh viên trường Y Huế  ..... và các cựu nữ sinh của tôi tại
·       Trường Trung Học Nông Lâm Súc Huế (1965 – 1967)
·       Trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế (1969 – 1972)
·       Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia Huế (1969 – 1972)
"thầy có nhớ em không", câu chào hỏi chứa chan bao nhiêu tình cảm đậm đà cứ mổi lần gặp lại học trò cũ của tôi trên các nẻo đường đất nước & trong những lần mổ nhân đạo các trẻ em tại miền Trung
Sinh ra, lớn lên và được học hành và thành đạt ngay tại đất thần kinh văn vật, quãng đời mang cái thân chùm gởi, số phận nổi trôi như bông bèo nó dài hơn thời gian sinh sống yên lành bên bờ sông Bến Ngự.

Đẹp từ nết nghĩ đến nết cảm, con gái Huế từ xưa đến nay vẫn vậy. Cái duyên dáng của người con gái xứ Huế được thể hiện qua mái tóc thề buông dài xỏa kín hai bờ vai. Mái tóc thề của các kiều nữ đất thần kinh thoang thoảng mùi hoa dạ lan, biểu tượng cho nét nguyên trinh của thuở ban đầu với tà áo trắng học trò, cái tuổi chóm nở tình yêu ban đầu. Làn gió thu ba vời vợi chứa đựng cái u sầu của tình Huế. Nụ cười hàm tiếu e ấp thẹn thùng dưới vành nón lá che ngang mặt ... để "nghể" đối tượng... để rồi bôi thêm cái nét sượng sùng dễ yêu mỗi khi bị bắt gặp quả tang.

Trong tâm tư của tôi, dưới lăng kính mỹ thuật của người Huế ... thì người con gái sinh trưởng nơi sông Hương núi Ngự được nhìn dưới một góc cạnh đặc biệt: đường ngôi rẽ lệch về bên phải, mái tóc thề rung rinh theo bước đi thật là nhẹ nhàng khoan thai, thân mình vươn đi thật yểu điệu cố tình không gây ra tiếng động uyển chuyển của con mèo vồ chuột, tà áo tung bay theo luồng gió. Qua những thể hiện trên đây con người cảm nhận một cái vẻ đẹp trời cho, rất chi là thơ mộng kín đáo. Ở đây sự đối xứng và sự kết hợp màu sắc không còn được tôn trọng.

Chiếc áo dài choàng trên thân thể người con gái Huế mang lại một phong cách độc đáo và truyền thống. Vẫn là chiếc áo dài Việt-Nam có cội nguồn từ chiếc áo tứ thân cổ truyền, theo dòng thời gian và tuân theo sự biến đổi các thời trang nhưng trên con đường cải tiến để theo con đường nghệ thuật biến dạng, cô gái Huế đã tạo cho mình một phong cách riêng qua kiểu mặc, cách may, màu sắc áo kết hợp với quai nón. Áo dài Huế cổ không cao chỉ cao vừa phải, eo áo không thắt đáy lưng ong nhưng... lại không bó quá, tà áo không xẻ quá cao và áo không chấm gót như áo Sàigòn. Đặc biệt, thục nữ đất thần kinh thể hiện nét riêng của mình qua cách chọn các loại vải với màu khác nhau; đen tuyền, trắng ngà vào giai đoạn lớn lên của tôi thì màu tím được các bạn cùng lớp ưa chuộng nhất, các màu nhẹ như xanh lơ, hồng nhạt, vàng mơ, tím phớt.... điểm son vài bông hoa màu đậm hay nhạt hơn màu vải một chút. Người thục nữ anh thư của Huế không chọn các loại vải có hoa to, màu nền và hoa quá tuơng phản, sặc sỡ...

Tà áo dài tím hay trắng cùng chiếc nón bài thơ luôn luôn dính liền với hình bóng người con gái
Huế mọi lúc, mọi nơi, trong nhà ngoài cươi hay trên hè phố. Người thợ chằm nón nơi đây đã bỏ bao nhiêu công phu để chằm lên những chiếc nón khéo léo ít nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam có thể bì kịp. Cọng tre cái được chuốt nhỏ như tăm, mượt trơn như ngà, nhẹ như khung bấc; những tấm lá cọ phơi khô, xếp hàng trắng muốt xếp hàng đều trên mặt khung, những sợi cước trong suốt khâu kín đáo, tỉ mỉ những nếp lá mềm dựa vào thân nón. Soi nón lên mặt trời, nằm giữa những thân lá mỏng tanh được xen vào giữa những cành hoa là những câu thơ được người thợ chằm nón lồng khéo léo vào giữa các lớp lá. Ôi ... cái mỹ miều người thục nữ xứ Huế còn được trang điểm thêm chiếc quai lụa nón đủ màu, khi thì màu tím ấp ủ, khi màu vàng mỡ gà, khi thì màu hồng ráng chiều, cũng có khi người con gái Huế chọn chiếc quai nón lụa trắng bạch hay giải yếm gấm đen để tôn thêm làn da khuôn mặt người đội nón.

Gái Huế là rứa đó, ấm như nắng hè, thơm như múi mít, ngọt như mật ong, óng mướt như tơ tằm, và... người con gái Huế cũng sắc như lưỡi dao lame, nóng như gió Lào thổi của mùa hè, lạnh như mùa đông miền bắc cực, can trường như núi đá Trường Sơn, thâm trầm như biển sâu ...  nhưng khi đã yêu rồi thì gái Huế chấp nhận tất cả .

Gặp rồi để khó mà quên.
 
Tiếng Huế, một “ngoại ngữ ?”

Võ Hương An


Người bạn đời gốc Bắc (nhà văn Thanh Nam) của nữ sĩ Túy Hồng có lần đã phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:
“Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe , không làm sao chen vào được một câu” (Túy Hồng, Áo Rộng Khăn Vành, TSH 1990, p.14)
Mới nghe qua tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương ?
Sau năm 1954, hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Và dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm. Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc, nếu không được khéo léo rặt ròng như Nam, Bắc chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương cơm hến. Bà xã tôi có cô em bạn dì ruột, sinh đẻ ở Huế, sau mới vào theo gia đình vào Sàigòn sinh sống. Dì ấy lấy chồng gốc Bắc 54. Khi vợ chồng tôi đến nhà thăm, cô nói chuyện bằng giọng Huế rặt, nhưng quay lại nói với chồng hay bà già chồng thì đổi ngay giọng Bắc, rất nhuần nhuyễn, rất tự nhiên.
Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặc khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
Thật vậy, việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này nọ, mất thì giờ. Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau, thương cả đường đi.” Nhà văn Thanh Nam vốn quen với nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao ... nhưng vì yêu nữ sĩ Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng... Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người nghe phải hiểu điều mình nói ? Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho hợp với nhu cầu thực tế là sự thích ứng hoàn cảnh một cách khôn ngoan. Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh là nhờ tinh thần hội nhập thực tế. Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ. Hòa mà không hùa là thế.
Ai cũng biết Tổng thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế, nhưng khi nói trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm trọ trẹ chăng? Hẳn nhiên là không. Trong nước lúc bấy giờ, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó mà buộc quốc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông hiểu rằng ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách.” Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng thống Ngô Đình Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v. Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách lại rất dễ lọt lỗ tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm “giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ??
Tôi không phải là một nhà ngữ học. Vì vậy những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường. Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế”) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao? Để dễ thông cảm, ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói, còn “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng. Đôi khi trong “tiếng” bao gồm cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề của bài này.
  Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc về một âm vực khó nhận ra? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình. Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp.
Riêng tôi, nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có được giọng nói dễ nghe thì họ lại rất khó giả giọng của miền khác; trái lại, nếu âm vực của giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tính, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính cái đặc điểm trung tính này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền một cách không mấy khó khăn. Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sàigòn . . . người Huế đều giả được tuốt. Cũng tỉ như nước lả không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu và muốn pha màu gì cũng được. Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết ý kiến này sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm.”
Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã, không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t”. Nếu từ Quảng Nam trở vào khó phân biệt âm “b” và “p”, đến nổi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay bê phở”, ( ngay cả đến những bậc khoa bảng nói tiếng Tây như gió , cũng có lúc nói âm “bê phở” chưa chỉnh) thì ở Huế, tại vùng quê, và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt sự khác nhau giữa các âm “gi”, “d” và “nh”. Người già và người nhà đều được nói giống nhau.
Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già rằng :”Mặc dầu cháu đã tính toán khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mói đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù.” Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à? Ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (làm nhà), chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi.” Rõ ràng là ông cụ chơi chữ theo kiểu Huế, trộn lẫn âm thanh và ý nghĩa để biện luận theo ý mình. Các bạn miền khác hẳn khó mà thưởng thức lối đùa cợt chữ nghĩa theo kiểu đó.
Tôi không biết khi một người ngoại quốc học tiếng Việt thì cái khó nhất đối với họ là gì? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng? Văn phạm chăng? . . . Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi ngã cho đúng đã là một vấn đề. Hồi còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất (lớp 5) đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng với câu thần chú “Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không”. Ý thầy muốn cho chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu Huyền hay dấu Nặng thì phải đánh dấu Ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu Sắc hay Không dấu thì phải đánh dấu Hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải học thuộc lòng. Chẳng hạn:
- nghĩ ngợi thì nghĩ có dấu ngã, nhưng nghỉ ngơi thì nghỉ lại có dấu hỏi.
- sừng sững và sững sốt cũng thế.
Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả không khỏi tốn công suy nghĩ nên hơi ... mệt. Khi đi thi bằng Tiểu học, tới môn chính tả tôi vái trời được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng. Ấy là nhờ gần gũi một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi mà biết được điều đó.
Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (ví dụ: nghĩ ngợi -> nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (ví dụ: nghỉ ngơi -> nghị ngơi). Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay. Một ông nhạc sĩ nọ gốc Miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 1975 đã có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước”, cũng chỉ vì không để ý điều đó.
Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú vừa “giận” . . . Thích thú vì tác giả viết rất có duyên. Còn giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ sai (tôi đinh ninh thế). Ai đời “Thôi em về hí” mà lại sắp thành “Thôi em về hỉ”. Chữ HÍ của người ta viết với dấu sắc, đem sửa lại thành HỈ với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc. Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như nhé, hay nhỉ trong tiếng Bắc và nha trong tiếng Nam . . .
Tôi cứ tự cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh, mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ. Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành chữ HỈ bởi vì khi người Huế phát âm những chữ có dấu sắc thì người Bắc và người Nam nghe thành dấu hỏi và dấu nặng. Đó là lý do hí biến thành hỉ. Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra. Lỗi ở ấn công chăng? Lỗi ở thầy cò chăng? Nếu không phải do hai người này thì đó là điều khó hiểu.
Trong bài “Tôi không yêu tíếng Huế” (TSH 1990) tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ vì người xứ khác đã nghe khác dấu đi. Chẳng hạn một thiếu nữ Hà thành khi nghe một thanh niên Huế ngõ lời “Cô cho tôi xin một cái bóng (cái ảnh) của cô để làm kỹ niệm . . “ đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (p.45). Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “ Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn. Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (p.46).
Thời gian ở tù trong trại lao cải, (sau 1975) được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào. Buổi tối, khi tất cả đã vào chuồng, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ, domino, hoặc kể chuyện vui cho đở buồn. Có lần một anh bảo tôi “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra’ “Dĩ nhiên tôi đáp ứng ngay, dõng dạc rõ ràng. Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên. Có cả tiếng hô “Hay, hay! Nói tiếp đi”. Tôi ngơ ngác không hiểu vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế. Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó.” À ra thế !
Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh. Trong lúc nói chuyện chỉ cần đổi “ton” lớ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay. Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa.
Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra. Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng. Tác giả Phàm Phu (TSH, 1990 đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo chơi phố xá Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỹ niệm. Vừa đưa máy ảnh lên ngắm, tác giả vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo “Chụp hí?” (chụp nhé) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả thì bị bạn mắng như tát nước là đồ ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc. Lý do là trong tiếng Thái, “chụp” có nghĩa là hôn, còn “hí” là “cái ấy” của phụ nữ. Thấy không, hai tiếng Huế vô tội đã trở thành “ngôn ngữ sàm sở” ở Bangkok.
Hồi còn ở tù tại trại lao cải Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kà-tu bỏ chạy trong cơn mưa. Số là sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại. Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào trong một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tránh cho than khỏi ướt. Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kà-tu, từ phía suối chạy lúp xúp về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để tránh mưa. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm ... sợ mấy phụ nữ sẽ bị trượt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té, té!” Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng, không chạy vào lều nữa. Trong tổ, có anh bạn gốc Trà My (Quận miền núi của Quảng Nam) nhẩn nha giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa. “Té”, tiếng Kà-tu có nghĩa là “đéo”, biết chưa? Lần sau, gặp tụi đàn bà con gái ở đây nhớ đừng có nói “bậy” như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa.” Hú vía !
Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đên ngôn ngữ khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước, ngôn ngữ cũng thay đổi theo từng địa phương. Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau. Cùng chỉ một vật, một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau. Chẳng hạn chữ “đồ”. Trong khi miền Nam dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì miền Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ. Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ), ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ,
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật đựng thức ăn, ở Bắc gọi bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là tô. Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì bị mất thăng bằng, Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là té. Chữ “địt” Bắc và Nam hiểu không giống nhau. Với người Bắc, “địt” có nghĩa là “đéo”, là làm tình; còn từ miền Trung trở vô, “địt” chỉ có nghĩ là xả hơi trong bụng ra bằng ngã hậu môn, chữ Hán gọi là trung tiện. Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên. Bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung.
Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh ra nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu từ điển tiếng Huế. Trong Ngàn Năm Xứ Huế (San Jose: Thương Huế, 1993) Nguyễn Châu cũng đã sưu tập và giải thích một số nhưng vẫn chưa đủ. Trong TSH 1993, qua bài Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của cung đình trong ngôn ngữ Huế. Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả.
Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác. Tôi có anh bạn người Nam sống ở Huế khá lâu. Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu”. Nghe vậy một anh bạn khác liền hỏi ngay:
- Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn chắc rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như “quạ quạ bẻ bắp “.
Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua. Đây là chìa khóa mật mã:
  - bựa qua : hôm qua
- lôi giau : lôi nhau
- ngầy lộn : gây gổ
- chắc : với nhau
- chờn : cái giường
- trữa cươi : giữa sân
- bể mỏ : vỡ mồm, giập miệng
- u trốt : u đầu
Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ta hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa. Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn. Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông của Huế - dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không có ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ”- nhưng lại là một thành ngữ khó hiểu vói xứ khác. Trong một cuộc tiếp kiến Toàn quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (Đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vị quan lỗi lạc lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà: “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp ...” (Nguyễn Đặng, TSH 1993) chỉ vì ông không phải là người Huế. La ngầy hay ngầy nghĩa là la rầy, nhưng ngầy lộn lại có nghĩa là gây gổ nhau. Mụ nớ có nghĩa là người đàn bà kia (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là Mụ hay Mệ, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc. Thật là rắc rối.
Có một thực tế mà dường như ít ai để ý. Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành phổ biến, trở thành văn tự chính thức thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo ngôn ngữ miền Bắc là lối viết chính thức nước ta.
Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học v.v. phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như đều được viết theo giọng Bắc. Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, và hiện nay là Hồ Trường An, là viết văn rặt giọng Nam, còn hầu như tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái ngôn ngữ miền Bắc. Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt-Nam, một tác phẩm biên khảo, cũng dùng ngôn ngữ Bắc. Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . . “ được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .” Đừng nói chi xa, ngay tập TSH bạn đang cầm trên tay là một bằng chứng cụ thể, và ngay bài viết này cũng thế.
Ngôn ngữ miền Bắc hầu như đã trở thành lối nói và viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam tiến. Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự. Khi hát tân nhạc, tất cả các ca sĩ đều hát theo giọng Bắc, bất kể người miền nào. Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi hát tân nhạc theo giọng Nam. Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên. Từ thập niên 60, một số các nhà văn nữ gốc Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên – kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong ban AVT – chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An.
Giọng Bắc giọng Nam dễ nghe, tiếng Bắc là ngôn ngữ chính thức trong sinh hoạt văn hóa và xã hội, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc không gặp trở ngại khi đối thoại với người khác xứ. Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau. Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa. Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế thành ngoại ngữ. Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế. Ai không tin, thử hỏi mấy ông r​ể​ Huế, biết ngay.


Võ Hương An
Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I (VNCH)
Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng