SINH LÝ BỆNH CỦA CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG(PATHOPHYSIOLOGIE DU TRAUMA DE LA COLONNE)
Dr Jean-Marie Jacques
Service des Urgences
Centre Hospitalier de la Haute-Senne
Soignies, Belgique
Service des Urgences
Centre Hospitalier de la Haute-Senne
Soignies, Belgique
I.TỦY SỐNG
Sự phối hợp những cử động bất thường gập, duỗi, xoay và ép sẽ gây nên những thương tổn có thể đoán trước của cột sống. Một cử động duỗi hay gập phối hợp với xoay là nguyên nhân chính của thương tổn ở cột sống cổ, trong khi một cử động ép với gập và xoay giải thích những thương tổn của cột sống cổ và thắt lưng. Mặc dầu những tổn thương tương đối nhỏ có thể gây nên những thương tổn đáng kể ở các bệnh nhân vốn bị hư khớp đốt sống (spondylarthrose) có trước, một ống tủy hẹp một cách bất thường hay một tình trạng không vững gây nên bởi vài căn bệnh như viêm đa khớp dạng thấp, các cơ chế thông thường nhất là tương tự nhau. Dầu cho cơ chế gây thương tổn thế nào, khoảng 14% các thương tổn cột sống sẽ gây nên một vấn đề tủy. Ta thường nói rằng đa số các thương tổn đốt sống là ở mức cột sống cổ ; tuy nhiên những dữ kiện mới đây hơn cho một phân bố khác đối với những nơi gãy xương ; 22% cổ, 28% lưng, 41% thắt lưng và 8% ở nhiều mức. Phần lớn các thương tổn tủy được liên kết với một gãy xương cột sống cổ.
Điều rất quan trọng là phải biết rằng dầu đó một thương tổn cột sống hay tủy không bắt buộc phải định vị ở nơi bị thương tổn. Những công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng 18% các thương tổn cột sống cổ, 63% các thương tổn vùng lưng và 9% những thương tổn thắt lưng, đau nằm ở chỗ khác.Vậy, nếu ta nghi ngờ một thương tổn đốt sống ở một mức, cần phải rất thận trọng vì khả năng thương tổn nằm ở một mức khác. Cũng vậy, nếu một thương tổn đốt sống được phát hiện, một thương tổn đốt sống nơi khác có thể được tìm thấy với một tỷ lệ có thể lên đến 15% các trường hợp.
1. GẬP (FLEXION)
Sự phối hợp những cử động bất thường gập, duỗi, xoay và ép sẽ gây nên những thương tổn có thể đoán trước của cột sống. Một cử động duỗi hay gập phối hợp với xoay là nguyên nhân chính của thương tổn ở cột sống cổ, trong khi một cử động ép với gập và xoay giải thích những thương tổn của cột sống cổ và thắt lưng. Mặc dầu những tổn thương tương đối nhỏ có thể gây nên những thương tổn đáng kể ở các bệnh nhân vốn bị hư khớp đốt sống (spondylarthrose) có trước, một ống tủy hẹp một cách bất thường hay một tình trạng không vững gây nên bởi vài căn bệnh như viêm đa khớp dạng thấp, các cơ chế thông thường nhất là tương tự nhau. Dầu cho cơ chế gây thương tổn thế nào, khoảng 14% các thương tổn cột sống sẽ gây nên một vấn đề tủy. Ta thường nói rằng đa số các thương tổn đốt sống là ở mức cột sống cổ ; tuy nhiên những dữ kiện mới đây hơn cho một phân bố khác đối với những nơi gãy xương ; 22% cổ, 28% lưng, 41% thắt lưng và 8% ở nhiều mức. Phần lớn các thương tổn tủy được liên kết với một gãy xương cột sống cổ.
Điều rất quan trọng là phải biết rằng dầu đó một thương tổn cột sống hay tủy không bắt buộc phải định vị ở nơi bị thương tổn. Những công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng 18% các thương tổn cột sống cổ, 63% các thương tổn vùng lưng và 9% những thương tổn thắt lưng, đau nằm ở chỗ khác.Vậy, nếu ta nghi ngờ một thương tổn đốt sống ở một mức, cần phải rất thận trọng vì khả năng thương tổn nằm ở một mức khác. Cũng vậy, nếu một thương tổn đốt sống được phát hiện, một thương tổn đốt sống nơi khác có thể được tìm thấy với một tỷ lệ có thể lên đến 15% các trường hợp.
1. GẬP (FLEXION)
Bằng
cách tiến hành như thế, ta quan sát một sự tiến triển rõ rệt của tỷ lệ
sống thêm lúc 5 năm. Đối với ung thư tiền liệt tuyến, tỷ lệ sống thêm
lúc 5 năm là 72% đối với một chẩn đoán được thực hiện trong khoảng thời
gian quanh năm 1990 (1989-1993) trong khi đó nó đạt 94% đối với một chẩn
đoán được xác lập giữa năm 2005 và 2010. Đối với ung thư vú, tỷ lệ sống
thêm lúc 5 năm tiến triển từ 80 lên 87%. Sau cùng, đối với ung thư
đại-trực tràng (đại tràng, trực tràng), tỷ lệ sống thêm lúc 5 năm chuyển
từ 54% lên 63%.
Phân tử này, độc ở liều cao, được sử dụng chống lại 50 căn bệnh.

+ Đầu gối en flexum 30 đến 45 độ hoặc hơn.

Gãy
cẳng tay được giới hạn từ mấu nhị đầu (tubérosité radiale) xương quay
đến 2 khoát ngón tay trên nếp gấp cổ tay (interligne radio-carpienne). Ở
phía trên, chúng nằm trong khung cảnh của gãy khuỷu tay (đầu, cổ xương
quay và mỏm khuỷu) và ở phía dưới, trong những gãy xương của cổ tay và
đặc biệt những gãy xương của đầu dưới của xương quay.
