Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

Thời sự y học số 396 – BS Nguyễn Văn Thịnh

1/ 5 NĂM SAU MỘT UNG THƯ, SỰ SỐNG THÊM TIẾP TỤC ĐƯỢC CẢI THIỆN Ở PHÁP
Những cải thiện được ghi nhận là do những tiến bộ chẩn đoán và điều trị.
CANCER. Trước hết có tin vui : người mà hôm nay được chẩn đoán bị một ung thư có những cơ may thoát khỏi nó tốt hơn so với điều đó đã xảy ra vào đầu những năm 1990. Dĩ nhiên, những phân tích tinh tế hơn, từng loại ung thư, bắt đầu từ réseau français des registres du cancer dẫn đến những diễn giải tinh vi hơn, nhưng điều chủ yếu của message là ở chỗ đó.
Đối với 3 trong số 4 ung thư thường gặp nhất (tiền liệt tuyến, vú, đại trực tràng), sự cải thiện là rõ rệt. Các nhà thống kê dựa trên survie nette à 5 ans, nghia là sự sống thêm được quan sát trong 5 năm sau khi loại bỏ về mặt thống kê những nguyên nhân khả dĩ khác của tử vong. Một chỉ báo đặc biệt đáng lưu ý bởi vì nó cho phép so sánh tính hiệu quả của hệ điều trị giữa những thời kỳ khác nhau trong cùng một nước hay ở nước ngoài.
Bằng cách tiến hành như thế, ta quan sát một sự tiến triển rõ rệt của tỷ lệ sống thêm lúc 5 năm. Đối với ung thư tiền liệt tuyến, tỷ lệ sống thêm lúc 5 năm là 72% đối với một chẩn đoán được thực hiện trong khoảng thời gian quanh năm 1990 (1989-1993) trong khi đó nó đạt 94% đối với một chẩn đoán được xác lập giữa năm 2005 và 2010. Đối với ung thư vú, tỷ lệ sống thêm lúc 5 năm tiến triển từ 80 lên 87%. Sau cùng, đối với ung thư đại-trực tràng (đại tràng, trực tràng), tỷ lệ sống thêm lúc 5 năm chuyển từ 54% lên 63%.
Vấn đề là cần xác định những tiến bộ này phát xuất từ đâu. Đối với ung thư tiền liệt tuyến (vào năm 2012, 56.800 trường hợp mới ở Pháp và 8876 trường hợp tử vong), sự cải thiện của tỷ lệ sống thêm chủ yếu do một chẩn đoán sớm hơn ” do sự phát hiện cá nhân bằng định lượng PSA (antigène spécifique de la prostate) bắt đầu từ những năm 1990 “, các chuyên gia của réseau Francim đã chứng thực như vậy. Một giải thích nghịch lý vì lẽ công tác điều tra phát hiện này (theo định nghĩa ở những người không có triệu chứng) không được tổ chức ở Pháp, cũng không được khuyến nghị bởi bộ y tế, mặc dầu được thực hiện rộng rãi bởi nhiều thầy thuốc !
Các chuyên gia thoải mái hơn với ung thư vú (48.000 trường hợp mỗi năm 2012, 11.886 trường hợp tử vong) và ung thư đại-trực tràng (42.150 trường hợp mới và 17.722 trường hợp tử vong năm 2012) vì lẽ đối với những ung thư này, một công tác điều tra phát hiện thật sự được tổ chức ở Pháp.
Tuy nhiên, đối với ung thư vú, sử gia tăng tỷ lệ sống sót của ung thư không chỉ do mammographie de dépistage mà còn do những tiến bộ trong điều trị, đặc biệt với sự xuất hiện của Herceptin.
TIÊN LƯỢNG XẤU.
Đối với ung thư đại-trực tràng, ta biết rằng sự tham dự vào dépistage organisé không đủ và ” sự cải thiện tỷ lệ sống còn chủ yếu được giải thích bởi một sự giảm của tỷ lệ tử vong do mổ và của những tiến bộ điều trị “, theo các chuyên gia của Francim.
Những con số rõ rệt ít vui vẻ hơn đối với ung thư phổi, ung thư đứng thứ hai theo thứ tự tần số ở Pháp (40.000 trường hợp mới mỗi năm) nhưng đứng đầu về số tử vong : 29.949 trường hợp tử vong năm 2012. Tỷ lệ sống còn thật vậy vẫn rất thấp và ít tiến bộ, từ 13% đối với một chẩn đoán khoảng năm 1990 đến 17% vào năm 2005-2010.
Nguyên nhân được xác định rõ : chứng nghiện thuốc lá, ở Pháp sự chống lại vẫn không đủ. Biện pháp hữu hiệu nhất, tăng giá thuốc lá, từng bị Bộ y tế gạt bỏ. Những ung thư liên kết với rượu (thực quản, đầu, cổ) cũng đưa đến một tiên lượng xấu.
NHỮNG TIẾN BỘ ĐÁNG CHÚ Ý CHỐNG LẠI UNG THƯ MÁU
Không chỉ ở Pháp mà tỷ lệ tử vong do ung thư giảm. Điều này cũng đúng cho toàn châu Âu, như một công trình nghiên cứu được công bố vào cuối tháng giêng 2016 trong tạp chí Annales of Oncology đã nhắc lại điều đó. Khuynh hướng giảm này đặc biệt rõ rệt ở các trẻ em và những người trưởng thành trẻ bị bệnh ung thư máu. Theo những dữ kiện của các nhà nghiên cứu, giữa 2009 và 2016 những tỷ lệ tử vong do bệnh ung thư máu sụt 38% ở con trai từ 0-14 tuổi và 20% ở con gái. Giữa 15 và 44 tuổi, những sự giảm này khoảng 26% ở đàn ông và 22% ở đàn bà. Giữa 45 và 69 tuổi, những tỷ lệ tử vong giảm 19% đối với đàn ông và đàn bà.
Nhưng đằng sau những con số toàn bộ này, ẩn dấu những thực tế rất thay đổi. ” Không có một, mà nhiều ung thư máu. Đó cũng giống như sự kết tụ của các maladie orpheline”, GS André Baruchel, thầy thuốc chuyên khoa huyết học của bệnh viện Robert Debré, Paris đã giải thích như vậy…Một cách sơ đồ ta phân biệt những leucémie aigue, phát triển một cách nhanh chóng, với nhung leucémie chronique. Hai loại này lại được phân loại tùy theo những tế bào bị thương tổn : leucémie lymphoblastique khi đó là những précurseur của những tế bào lympho, và leucémie myéloblastique tấn công vào những précurseur của những bạch cầu khác.
Những leucémie thường gặp nhất ở trẻ em không giống với những leucémie thường gặp nhất ở người lớn : những trẻ nhỏ nhất duy nhất bị leucémie aigue và đặc biệt hơn bởi leucémie aigue lymphoblastique (LAL), rất hiếm ở người lớn ; trong 15% các trường hợp, chúng phát triển một leucémie aigue myéloide (LAM). Hôm nay, ở nhi khoa, tỷ lệ chữa lành đạt 90% trong LAL và 60% trong LAM. ” Từ những năm 1990, sự đẩy mạnh những điều trị đã dẫn đến một sự giảm tỷ lệ tử vong toàn bộ. Trước hết chúng ta đã điều trị tích cực hơn những trẻ em và trái với điều mà ta có thể nghĩ, chúng chịu hóa trị tốt hơn, rồi những người trưởng thành trẻ”, GS Baruchel đã nhấn mạnh như vậy.
Trái lại ở người trưởng thành, LAM là leucémie aigue thường gặp nhất. Những người dưới 55 tuổi có một tỷ lệ sống thêm tương tự với tỷ lệ của những trẻ em, nhưng LAM được gặp đa số ở những người trên 60 tuổi, ở họ khó tăng cường hóa trị. Kết quả : tỷ lệ sống thêm, gần 30% giữa 55 và 65 tuổi, sụt xuống 3% ở tuổi 75 và hơn theo những dữ kiện Pháp của INVS. ” Những năm qua, chúng ta đã thực hiện những tiến bộ với sự khám phá những chất chỉ dấu phân tử, cho phép tiến nhanh hơn đến một allogreffe trong trường hợp tiên lượng xấu, hay với sự xuất hiện những liệu pháp nhắm đích được sử dụng trong trường hợp thất bại của hóa trị cổ điển. Nhưng vào lúc này, chúng ta không thấy những ảnh hưởng đáng kể lên tỷ lệ tử vong trong thời gian dài hạn “, BS Amine Belhabri, thầy thuốc chuyên khoa huyết học ở centre Léon-Bérard (Lyon) đã giải thích như vậy.
Ngược lại, leucémie myéloide chronique, xảy ra ở người lớn trước 60 tuổi, đã hưởng được sự xuất hiện của liệu pháp nhắm đích vào đầu những năm 2000 và đặc biệt hơn của Glivec. Trước khi có liệu pháp này, LMC thường gây tử vong nếu không được ghép. ” Hôm nay khi bệnh nhân thuyên giảm hoàn toàn, chúng ta có thể xét ngừng điều trị”, Amine Belhari đã xác nhận như vậy
(LE FIGARO 3/2/2016)
2/ UNG THƯ TIỀN LIỆT TUYẾN : MỘT TIẾN BỘ CHẬM VÀ THẬN TRỌNG.
NHỮNG CON SỐ
  • – Ung thư đứng đầu ở nam giới
  • – 53.900 trường hợp mới năm 2011
  • – 66% xảy ra sau 65 tuổi
  • – 8800 trường hợp tử vong năm 2011
  • – Tỷ lệ sống còn lúc 5 năm là 94%, lúc 10 năm là 80%
Đó là ung thư thường gặp nhất ở đàn ông. Tuổi tác là yếu tố nguy cơ chính nhưng nguồn gốc chủng tộc cũng ảnh hưởng : ở Pháp, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người Antillais. Ngoài ra, 20% các bệnh nhân có ít nhất hai trường hợp khác trong gia đình. Nói chung đó là một bệnh tiến triển chậm, trong 10 đến 15 năm, mặc dầu có những thể ác tính (formes agressives) có tiến triển nhanh nhưng hiếm hơn.
Trong nhiều năm, các tế bào ung thư có thể vẫn bị giam hãm trong tiền liệt tuyến. Tuyến này, nằm dưới bàng quang và trước trực tràng, đóng một vai trò trong sự sản xuất tinh dịch. Trong thời kỳ này, bệnh gây ít hay không triệu chứng. Với thời gian, khối u lớn lên và có thể lan rộng đến các mô lân cận như các túi tinh (vésicules séminales). Những dấu hiệu lâm sàng đầu tiên như khó tiểu có thể xuất hiện. Giai đoạn tiếp theo là sự di tản của những tế bào ung thư đến những cơ quan khác : trong phần lớn các trường hợp, các di căn hiện diện trong cột sống hay trong các xương của khung chậu, gây đau vùng thắt lưng.
Sự điều tra phát hiện ở một giai đoạn sớm (Bộ y tế từ chối thực hiện một cách hệ thống vì cho là không đủ tin cậy) gồm khám trực tràng và định lượng PSA. Chất chỉ dấu sinh học này của hoạt động của tiền liệt tuyến, vì không đặc hiệu đối với bệnh lý này, nên chỉ có phân tích các sinh thiết (lấy mẫu nghiệm mô) mới cho phép xác nhận một cách chắc chắn rằng đó là một ung thư và đánh giá tính chất hung dữ của nó.
ĐIỀU TRỊ.
Đối với những ung thư khu trú có nguy cơ tiến triển thấp có thể theo phương pháp theo dõi tích cực (surveillance active). Phương pháp này nhằm thực hiện một định lượng PSA và khám trực tràng mỗi 6 tháng, tiếp theo sau bởi một sinh thiết mới một năm sau chẩn đoán ban đầu, rồi mỗi 2 hay 3 năm. Ngay ở giai đoạn này hay khi bệnh tiến triển, có thể xét đến việc tiến hành cắt bỏ tuyến tiền liệt và các túi tinh, với nguy cơ bị những tác dụng phụ như són tiểu hay những rối loạn cương.
Điều trị quy chiếu khác là radiothérapie externe, gây nên cùng những tác dụng không mong muốn. Curiethérapie nhằm implanter trong tiền liệt tuyến những hạt iode phóng xạ, thu giảm những những tác dụng phụ này đối với những ung thư khu trú có nguy cơ thấp hay trung bình.
Đối với những dạng ít tiến triển này, ngoài ra còn có những giải pháp khác như siêu âm điều tiêu có cường độ cao (ultrasons focalisés de haute intensité) hay lại nữa cryothérapie, phá hủy khối u nhờ lạnh. Tuy nhiên những điều trị này đang được đánh giá và những chỉ định của chúng vẫn cần được làm cho tinh tế hơn. Cryothérapie chủ yếu được sử dụng trong trường hợp tái phát tại chỗ sau radiothérapie.
Khi ung thư có nguy cơ cao hay tiến triển tại chỗ, một hormonothérapie được thực hiện để ngăn cản tác dụng kích thích của testostérone lên những tế bào ung thư. Hóa trị cho đến nay vốn được chỉ định khi có một đề kháng với hormonothérapie, từ ít lâu nay có thể được phối hợp với hormonothérapie.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2016)
3/ UNG THƯ VÚ : CỨ 10 TRƯỜNG HỢP CÓ 9 ĐƯỢC CHỮA LÀNH
NHỮNG CON SỐ
  • – Ung thư đứng đầu ở phụ nữ
  • – 48.763 trường hợp mới được chẩn đoán
  • – 11.886 trường hợp tử vong năm 2012
  • – 63 tuổi, đó là tuổi trung bình vào lúc chẩn đoán
  • – Tỷ lệ sống sót lúc 5 năm là 87%, lúc 10 năm là 76%
Ung thư vú là ung thư ác tính thường gặp nhất ở phụ nữ. Phần lớn không triệu chứng, nó được khám phá nhờ công tác điều tra phát hiện.
Trong 90% các trường hợp, đó là một adénocarcinome, phát sinh từ những tế bào biểu mô phủ mặt trong của tuyến vú. Khi ung thư phát triển trong những ống dẫn qua đó bình thường sữa đi qua, ta nói là ung thư biểu mô ống (carcinome canalaire). Hiếm hơn là ung thư biểu mô thùy (carcinome lobulaire), nghĩa là phát triển trong một tiểu thùy (lobule), cấu trúc tiết sữa. Ngoài ra ta phân biệt những ung thư tại chỗ (cancers in situ), khi những tế bào ác tính khu trú ở bên trong các ống dẫn sữa hay các tiểu thùy và chưa xâm nhập các mô lân cận, với những ung thư xâm nhập (cancers infiltrants). Những ung thư sau cùng này có thể lan tràn đến các hạch gần nhất, ở nách, được gọi là những hạch nách (ganglions axillaires). Ở phụ nữ, cứ 10 ung thư được chẩn đoán có hơn 8 là những ung thư biểu mô ống tại chỗ (carcinome canalaire in situ : CCIS).Trong số những yếu tố nguy cơ, ta tìm thấy tuổi tác, những tiền sử cá nhân và gia đình, sự sử dụng lâu dài một điều trị hormone thay thế, tình trạng tăng thể trọng, sự tiêu thụ rượu và thuốc lá. Ngoài ra, 5 đến 10% của những ung thư này là do di truyền, nghĩa là có thể quy cho một biến dị di truyền (những gène BRCA1và BRCA2 thường liên hệ nhất)
Sau cùng ta hãy nhớ rằng dưới 1% những ung thư vú được chẩn đoán ở đàn ông, thường bị một carcinome canalaire infiltrant hơn. Sự điều trị giống với điều trị ở phụ nữ.
ĐIỀU TRỊ
Những loại điều trị khác nhau có thể được xét đến, đơn độc hay phối hợp : ngoại khoa, có thể đi từ cắt bỏ đơn thuần khối u đến cắt bỏ hoàn toàn vú (mastectomie), tiếp theo sau hay không bởi một tái tạo vú (reconstruction mammaire) ; bức xạ liệu pháp (radiothérpie) ; kích thích tố liệu pháp (hormonothérapie) ; hóa trị (chimiothérapie) và những liệu pháp nhắm đích (thérapies ciblées). Tùy theo trường hợp, những điều trị này có mục đích hủy bỏ khối u và những di căn của nó, làm giảm nguy cơ tái phát hay làm chậm sự phát triển của khối u và có thể được bổ sung bởi những “săn sóc hỗ trợ” (soins de support), được chỉ định để giúp bệnh nhân chịu được những hậu quả của bệnh.
Đối với carcinome canalaire in situ, thường gặp nhất, điều trị chủ yếu loco-régional : ngoại khoa bảo tồn (chirurgie conservatrice), tiếp theo sau bởi radiothérapie hay cắt bỏ hoàn toàn tuyến vú, với trong hai trường hợp cắt bỏ những hạch nách nếu cần. Còn về carcinome lobulaire in situ, sự điều trị trước hết dựa trên một theo dõi đều đặn, với nếu cần một sinh thiết và/hoặc cắt bỏ khối u.
Đối với những loại khối u khác, sự lựa chọn tùy thuộc vào nhiều yếu tố :
– định vị của khối u
– giai đoạn của khối u (kích thước, tính chất xâm nhập hay không, sự hiện diện của những di căn) ;
– cấp độ của nó, nghĩa là tính chất hung dữ tiềm tàng, được xác định tùy theo những đặc điểm của những tế bào ung thư
– sự hiện diện của một hay nhiều ổ ung thư (foyers tumoraux)
– statut của nó về những thụ thể kích thích tố (ER đối với oestrogène và PR đối với progestérone) và những thụ thể HER2 : thí dụ, nếu những tế bào ung thư mang những thụ thể này, khi đó ta nói rằng khối u là ER+ và/ hoặc HER2+ vậy một hormonothérapie và/hoặc một liệu pháp nhắm đích sẽ có thể được xét đến ; sau cùng, tình trạng tổng quát của bệnh nhân, nhưng cũng ý kiến của bệnh nhân về những phương pháp điều trị được đề nghị.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2016)
4/ MIỄN DỊCH LIỆU PHÁP XÁC NHẬN VAI TRÒ TRONG VŨ KHÍ CHỐNG UNG THƯ.
Những loại thuốc này, cho phép hệ miễn dịch làm thất bại một cơ chế phòng thủ của ung thư, xác nhận những hứa hẹn của chúng để điều trị những ung thư tiến triển.ONCOLOGIE. Các nhà nghiên cứu trong y khoa thường ít mau lẹ hăng tiết lên trước một cái mới. Sự nhiệt tình được bày tỏ đối với immunothérapie ở hội nghị Asco, diễn đàn lớn hàng năm của ung thư học thế giới, được tổ chức vào lúc này ở Chicago.
“Traitement de rupture”, “rất lạc quan, ” rất kích động”..Những qualificatif, được sử dụng bởi ủy ban tổ chức cũng như bởi những chuyên gia tham dự hội nghị, thể hiện tất cả hy vọng của hướng điều trị mới này, ưu tiên dành cho những ung thư di căn mà đối diện với chúng các thầy thuốc rất bất lực trong việc kéo dài đời sống của những bệnh nhân của họ, dầu chỉ vài tháng.
Khác với hóa trị (chimiothérapie), tiêu hủy những tế bào ung thư (và nhiều tế bào lành mạnh đi qua, nhất là trong máu), và những liệu pháp nhắm đích (thérapie ciblée), kềm hãm sự tăng trưởng của khối u bằng cách tấn công vào những bất thường phân tử cho phép nó phát triển, miễn dịch liệu pháp tác động vào hệ miễn dịch của bệnh nhân bằng cách làm thất bại một cơ chế phòng vệ của khối u, nhờ đó nó phong bế tác dụng của các tế bào lympho. ” Trái với những liệu pháp nhắm đích mà cơ chế tác dụng, với thời gian, cuối cùng bị lẩn tránh bởi ung thư, tiềm năng tác dụng của miễn dịch liệu pháp dường như không bao giờ cạn “, Jérome Vignier, giám đốc pôle santé publique et soins thuộc viện ung thư quốc gia đã nhấn mạnh như vậy.
Đường tác dụng này trước hết đã chứng tỏ tính hiệu quả đáng chú ý của nó trong điều trị mélanome métastasié, cho đến khi đó có tiên lượng rất xấu. BS Caroline Robert, trưởng khoa dermatologie thuộc viện Gustave-Roussy (Villejuif), đã tiến hành trong những năm qua nhiều thử nghiệm lâm sàng chủ chốt trong lãnh vực này. ” Với những cộng sự viên quốc tế của chúng tôi, chúng tôi đã cho thấy rằng miễn dịch liệu pháp gây nên một đáp ứng tốt hơn hóa trị và rằng những miễn dịch liệu pháp mới anti-PD1 như nivolumab và pembrolizumab cho những kết quả còn tốt hơn thế hệ đầu tiên, ipilumumab, với một tỷ lệ sinh tồn trung bình 2 năm.” Nhờ những điều trị này, vài bệnh nhân ngay cả thuyên giảm hoàn toàn từ nhiều năm nay, bà đã nói thêm như vậy.
Loại ung thư phổi thường gặp nhất, được gọi là ” non à petites cellules”, cũng đáp ứng với những đổi mới về điều trị này. Một thử nghiệm lâm sàng quốc tế giai đoạn 3 được trình bày ở Chicago cũng cho thấy rằng những bệnh nhân nhận nivolumab có tỷ lệ sống sót được kéo dài 27% so với những bệnh nhân nhận điều trị thông thường (docétaxel). Thậm chí từ 41 đến 60% đối với vài bệnh nhân có một tỷ lệ tăng cao của chất chỉ dấu sinh học PDL1 (đích của miễn dịch liệu pháp). Những kết quả về tính hiệu quả đáng phấn khởi cũng đã được quan sát trên những khối u rất đa dạng khác : bàng quang, buồng trứng, thận, đại tràng, TMH…
Chẳng bao lâu hai loại thuốc mới sẽ được thêm vào nivolumab của BMS và pembrolizumab của Merck, cả hai hiện sẵn có để sử dụng ở Pháp trong khung cảnh của một sự cho phép sử dụng tạm thời đối với mélanome và cancer du poumon non à petites cellules. Cũng được chờ đợi : những bước tiến về sự phối hợp của những sản phẩm này với nhau, với những liệu pháp nhắm đích hay với hóa trị.
Ở chân trời hiện lên điều mà mới chỉ cách nay vài năm dường như không thể được : chữa lành những bệnh nhân bị ung thư di căn. ” Hôm nay, ngoại trừ ung thư tỉnh hoàn và vài lymphome, ta chỉ chữa lành một cách ngoại lệ những ung thư di căn : ta kéo dài cuộc sống của các bệnh nhân, BS Christophe Le Tourneau, người phụ trách những thử nghiệm sớm và của médecine de précision thuộc Institut Curie (Paris) đã nhắc lại như thế. Nhưng những bệnh nhân được điều trị bởi miễn dịch liệu pháp cách nay 3-4 năm, trong số đó một vài đã ngừng điều trị, không cho thấy sự tái phát của căn bệnh. Đó mới chỉ 10% những bệnh nhân được điều trị, nhưng ta có thể tự hỏi một cách chính đáng là họ có thuyên giảm hoàn toàn hay không, mặc dầu cần một thời gian nhìn lại quan trọng hơn để xác nhận điều đó.
Tuy nhiên hãy coi chừng những hy vọng quá lớn. Miễn dịch liệu pháp không có tham vọng thay thế những điều trị hiện nay, nó được thêm vào và bổ sung chúng với ý nghĩ rằng những phối hợp tạo nên một cộng lực nhằm làm giảm tốc sự tăng trưởng của các khối u. ” Một cách nào đó, ta mơ tìm thấy một trithérapie của ung thư, như ta đã thấy đối với VIH “, Christophe Le Tourneau đã minh họa như vậy.
Ngoài ra, ” không phải tất cả các bệnh nhân đều đáp ứng với điều trị này”, BS Lynn Schuchter, thầy thuốc chuyên khoa ung thư và là hội viên của ung thư học lâm sàng Hoa Kỳ, khi trình bày với báo chí về những công trình nghiên cứu hứa hẹn về miễn dịch học, đã nhắc lại như vậy. ” Nhận diện những bệnh nhân khả dĩ nhận những thuốc mới này, đơn liệu pháp hay phối hợp, sẽ là một trong những thách thức của những năm sắp đến.
(LE FIGARO 1/6/2015)
5/ UNG THƯ ĐẠI-TRỰC TRÀNG : TỪ POLYPE ĐẾN UNG THƯ
NHỮNG CON SỐ
  • – Ung thư giết người đứng thứ hai sau ung thư phổi
  • – 43.000 trường hợp mới được chẩn đoán ở Pháp năm 2015
  • – 71 tuổi đó là tuổi trung bình ở đàn ông vào lúc chẩn đoán, 75 tuổi ở phụ nữ
  • – 54,6% những người bị ung thư đại-trực tràng là đàn ông
  • – Tỷ lệ sống sót lúc 5 năm là 60%
Những ung thư của đại tràng và của trực tràng được tập hợp dưới tên ung thư đại-trực tràng (cancer colorectal) vì chúng có những cơ chế chung. Trong 60 đến 80% các trường hợp, đó là sự phát triển không kiểm soát được của những tế bào của niêm mạc phủ thành trong của ống tiêu hóa, trong đó đại tràng và trực tràng thuộc phần cuối. Trước hết những tế bào này tạo thành một polype, một u hiền tính, tiến triển chậm thành adénome, được xem như là một u tiền ung thư (tumeur précancéreuse) rồi thành carcinome, một u ác tính. Tuy nhiên, không phải tất cả những polype đều tiến triển thành carcinome.Những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất là tuổi (bệnh rất hiếm trước 40 tuổi), sự kiện có một bệnh viêm mãn tính của ruột hay những tiền sử gia đình của ung thư này. Tình trạng tăng thể trọng (surpoids), chứng béo phì, chứng nghiện thuốc lá, sự tiêu thụ quá mức rượu hay lại nữa một chế độ ăn uống quá dồi dào thịt đỏ (viandes rouges) và được chế biến, cũng được liên kết với một nguy cơ gia tăng. Ngoài ra cũng có hai bệnh di truyền : polypose adénomateuse familiale cũng như hội chứng Lynch, những dạng gia đình của ung thư đại-trực tràng.
ĐIỀU TRỊ
Ngoại khoa nói chung được ưu tiên để lấy đi phần ung thư của ruột, đôi khi thành hai thì mổ khi có những di căn. Nếu có thể, thầy thuốc ngoại khoa may lại hai phần đại tràng không bị thương tổn để tái lập sự liên tục của ruột. Nhưng đôi khi tỏ ra cần thiết phải thực hiện một stomie, nghĩa là một nối kết giữa ruột và da của bụng để cho phép tháo phân qua một cái túi (poche).
Sự nhờ đến hóa trị có thể được xét đến trong 3 loại tình huống :
– khi ung thư không thể mổ được
– trước khi mổ, để thu nhỏ kích thước của khối u và/hay những di căn của nó.
– bổ sung cho ngoại khoa để hạn chế nguy cơ tái phát.
Trong trường hợp của những ung thư trực tràng, bức xạ liệu pháp thường được sử dụng, trước khi mổ để thu nhỏ khối u, hay sau khi mổ để hạn chế nguy cơ tái phát tại chỗ. Sau cùng, những liệu pháp nhắm đích bằng miễn dịch liệu pháp càng ngày càng được sử dụng, nhất là chống lại những ung thư di căn và những khối u rất ác tính.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2016)
6/ UNG THƯ ĐẠI-TRỰC TRÀNG : CHỈ 30% NGƯỜI PHÁP ĐƯỢC PHÁT HIỆN.
Nhân ngày Colon Day, ngày đầu tháng ba 2016, các thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa muốn nhạy cảm hóa dân chúng tầm quan trọng của điều tra phát hiện ung thư đại trực tràng. Với 42.000 trường hợp mới mỗi năm và 17.500 trường hợp tử vong, ung thư đại-trực tràng là ung thư thứ ba thường gặp nhất và gây tử vong nhất. Theo Conseil national professionnel d’hépato-gastro-entérologie (CNPHGE), có đến 10.000 trường hợp mỗi năm có thể tránh được bằng cách gia tăng tỷ lệ tham dự điều tra phát hiện và phòng ngừa.Hỏi : Tại sao những người Pháp tham gia ít như thế việc điều tra phát hiện của ung thư đại-trực tràng ?
Professeur Eric Vaillant : Hôm nay, chỉ 30% những người Pháp chịu đi điều tra phát hiện ung thư đại-trực tràng. Thế mà, để được hiệu quả về mặt y tế cộng đồng, cần phải một nửa dân số liên hệ tham gia vào công tác này. Tuy vậy, những người Pháp biết căn bệnh : 95% những người trên 50 tuổi biết rằng ung thư đại-trực tràng thuộc về những ung thư thường gặp nhất, theo những kết quả của thăm dò OpinionWay được thực hiện cho CNPHGE. Ngược lại, khoảng hơn 53% trong số họ ý thức rằng những triệu chứng của ung thư đại tràng chỉ xuất hiện vào một giai đoạn tiến triển. Mặt khác, một đa số những người Pháp không xem mình là có nguy cơ. Cũng phải nói rằng đại tràng vẫn là một vấn đề cấm kỵ. Có lẽ tất cả những lý do này giải thích tỷ lệ tham dự phát hiện bệnh thấp. Ung thư đại-trực tràng phát triển một cách chậm chạp. Trong đa số các trường hợp nó xuất phát từ một u hiền tính, được gọi là polype adénomateux, tiến triển và cuối cùng trở nên ung thư trong nhiều năm. Phải nói rằng nếu ung thư được chẩn đoán sớm, nó chữa lành trong 90% các trường hợp.
Hỏi : Ai cần được xét nghiệm phát hiện (test de dépistage)
Professeur Eric Vaillant : Điều tra phát hiện được dành cho tất cả những người trên 50 tuổi không có bệnh sử gia đình cũng như những tiền sử cá nhân ung thư đại-trực tràng hay adénome và không có triệu chứng gợi ý. Xét nghiệm phải được thực hiện mỗi 2 năm. 2/3 những ung thư đại-trực tràng được chẩn đoán ở những người này, không có những tiền sử, được gọi là nguy cơ trung bình. Nhưng chú ý, trắc nghiệm này không có giá trị chẩn đoán. Nó chỉ phát hiện sự hiện diện của máu trong phân. Nếu trắc nghiệm dương tính, trong khoảng 4% các trường hợp, khi đó phải thực hiện một nội soi đại tràng (colonoscopie). Chính thăm dò này sẽ cho phép biết được nguyên nhân của xuất huyết. Trong hơn 1/2 các trường hợp, nội soi đại tràng không phát hiện một bất thường nào. Nó phát hiện một polype trong 30 đến 40% các trường hợp và một ung thư trong 8% các trường hợp khi trắc nghiệm dương tính. Ngoài ra, ở những người có nguy cơ cao hay rất cao bị ung thư, soi đại tràng được khuyến nghị tức thì.
Hỏi : Những người được xem là có nguy cơ cao hay rất cao là những người nào ?
Professeur Eric Vaillant : Từ 15 đến 20% dân chúng có hai đến bốn lần nhiều nguy cơ phát triển một ung thư đại-trực tràng hơn những người có nguy cơ trung bình. Đó là những người có những tiền sử cá nhân ung thư đại-trực tràng hay polype, những người có một người bà con thế hệ thứ nhất đã bị một ung thư hay một polype hay những người bị bệnh viêm của ruột. Ta cũng biết rằng có những yếu tố cá nhân làm gia tăng nguy cơ : giới tính (đàn ông), tuổi, thể trọng, bệnh đái đường, tình trạng nhàn rổi không hoạt động, chế độ ăn uống nhiều thịt đỏ, rượu hau ít sợi, chứng nghiện thuốc lá.
Những người có nguy cơ rất cao chiếm dưới 5% dân số. Đó là những người có những bất thường di truyền. Trong một gia đình nếu ta chứng thực nhiều hơn 3 trường hợp ung thư đại tràng trên hai thế hệ, consultation d’oncogénétique là điều bắt buộc.
Hỏi : Khi soi đại tràng không phát hiện gì bất thường, có phải tiếp tục những test de dépistage mỗi 2 năm không ?
Professeur Eric Vaillant : Trong 5 đến 10 năm sau khi nội soi đại tràng, tỷ lệ giảm nguy cơ ung thư là 70% đến 90%. Sau một nội soi đại-trực tràng đã không phát hiện những polypes, anh có thể chờ đợi 5 năm trước khi thực hiện một trắc nghiệm mới. Nếu các polypes đã được phát hiện và lấy đi, anh sẽ làm một nội soi mới giữa 3 và 5 năm.
Hỏi : Lợi ích của test immunologique đã thay thế test Hemocult là gì ?
Professeur Eric Vaillant : Test immunologique dễ sử dụng hơn. Chỉ cần một mẫu nghiệm phân duy nhất. Nhất là nó đáng tin cậy và hiệu năng hơn. Nó cho phép phát hiện 2 đến 2,5 lần nhiều ung thư đại trực tràng hơn và 3 đến 4 lần nhiều polype thoái hóa hơn. Tổng cộng, nó phát hiện 70 đến 80% những ung thư. Vậy vài ung thư hay polype thoái hóa có thể không được phát hiện bởi test immunologique này. Chính vì vậy, trong trường hợp đau bụng, trouble du transit không bình thường và dai dẳng, nên đi khám bệnh.
Hỏi : Trắc nghiệm dễ sử dụng hơn này có làm gia tăng tỷ lệ phát hiện ?
Professeur Eric Vaillant : Trắc nghiệm miễn dịch chưa tròn một năm hiện hữu. Vậy khó đưa ra những so sánh. Điều mà ta biết, đó là 1,375 triệu tests đã được thực hiện năm 2015, so với 2,5 triệu Hemocult được thực hiện năm 2014.
(LE FIGARO 29/2/2016)
7/ THÀNH CÔNG CỦA MỘT PHUƠNG PHÁP CẢI TIẾN CHỐNG UNG THƯ RUỘT.
Một entreprise Pháp sử dụng một loại thuốc cho phép rọi tia X lên những khối u từ bên trong ruột.
CANCEROLOGIE. Nhờ một loại thuốc cải tiến, xí nghiệp Pháp AAA (Advanced Accelerator Application) đã có được một thành công tốt đẹp chống lại một ung thư khá hiếm, tumeur neuroendocrine của phần trung bình của ruột, để chống lại nó không có một điều trị có hiệu quả nào.Nguyên tắc của điều trị mới này, được gọi là Luthera, là gắn một nguyên tử phóng xạ (atome radioactif) vào một phân tử có tác dụng như một vecteur và phân tử này sẽ bị bắt giữ bởi những thụ thể hóa học đặc thù cho khối u. Khi đó, nguyên tố phóng xạ (élément radioactif) tan rã và phát ra những bức xạ sẽ gây nên sự chết của những tế bào ung thư, đồng thời hạn chế những tác dụng lên những tế bào lành mạnh ở chung quanh. Thật ra phương pháp cải tiến chống các ung thư này là một dạng radiothérapie interne ciblée, mở ra những triển vọng to lớn để điều trị những ung thư khuếch tán và những di căn, phần lớn không thể mổ được.
Thử nghiệm lâm sàng được tiến hành bởi AAA trên 230 bệnh nhân trên thế giới, một nửa được điều trị với Luthera, và nửa kia với điều trị quy chiếu tốt nhất hiện nay, octreotide, đã cho phép chứng tỏ rằng điều trị mới cho phép làm chậm lại một cách rất rõ rệt sự tiến triển của các khối u, và cải thiện ty lệ sống sót của các bệnh nhân. Thời gian sống sót trung bình không có sự tiến triển của khối u chuyển từ 8 tháng với điều trị tốt nhất hiện có lên hơn 30 tháng, một con số còn có thể được cải thiện, bởi vì nó tương ứng với thời gian của công trình nghiên cứu, hiện đang còn được tiến hành.
Một cách cũng có ý nghĩa, điều trị mới thu giảm gần như một nửa tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân được điều trị. Những con số này đã được trình bày vào cuối tháng giêng ở symposium de cancérologie gastro-intestinale của Hiệp hội ung thư học Hoa kỳ (ASCO) ở San Francisco bởi GS Jonathan Strosberg, thuộc Moffitt Cancer Center ở Florida. ” Đó là một kết quả ngoạn mục, với một tính hiệu quả mà ta thường không nhận thấy với những điều trị mới trong ung thư học “, BS Christophe Le Tourneau, thầy thuốc chuyên khoa ung thư thuộc Viện Curie, người đã không tham gia vào thử nghiệm lâm sàng, bình luận như vậy.
” Ngay khi thử nghiệm chấm dứt, từ nay đến vài tháng nữa, chúng tôi sẽ đệ đơn xin phép thương mại hóa “, Stefano Buono đã giải thích như vậy. Thật vậy tính hiệu quả của sản phẩm đến độ ở Pháp nó đã có thể được kê đơn nhờ một giấy phép tạm thời sử dụng do Cơ quan dược phẩm cấp.
Ý tưởng rọi tia X các khối u phân tán là khá xưa rồi, những từ lâu chỉ định này chỉ giới hạn vào những niche, vì không có những vecteur có khả năng mang những nguyên tố phóng xạ đến gần khối u nhất. ” Từ lâu ta sử dụng iode 131 phóng xạ để điều trị những ung thư của tuyến giáp, bởi vì iode được trực tiếp bắt giữ bởi tuyến giáp”, GS Philippe Ruzniewski, trưởng khoa tiêu hóa thuộc bệnh viện Beaujon (Clichy) đã giải thích như vậy. Ở bệnh viện này khoảng một chục bệnh nhân đã tham gia thử nghiệm Lutathera.
” Những tumeur neuroendocrine của intestin moyen mà chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm là những bệnh lý rất đặc biệt, mà tiến triển nói chung khá chậm “, GS Ruszniewski đã xác nhận như vậy. Vài trong số những khối u này có đặc điểm khác là có những tế bào với nhiều thụ thể đối với somatostatine, một kích thích tố được chế tạo bình thường bởi cơ thể. Các nhà sinh học đã lợi dụng đặc điểm này bằng cách gắn sản phẩm phóng xạ vào một phân tử, dotatate, gần giống somatostatine, cũng được gắn bởi những thụ thể của những tế bào ung thư.
ĐIỀU TRỊ QUY MÔ LỚN
” Sức mạnh của Luthera là phối hợp một radionucléide, Lutétium 177, với một vecteur, dotatate, cả hai rất hiệu quả “, GS Jean-Philippe Vuillez, phó khoa trưởng giảng dạy của CHU Grenoble đã giải thích như vậy. Lutétium 177 là cái mà các nhà vật lý gọi là một émetteur bêta : sự tan rã của nó phát ra một particule bêta, một điện tử. Particule này khá năng lượng và gây nên sự chết của những tế bào ung thư, nhưng ngược lại bán kính tác dụng của nó rất giới hạn, dưới 3 mm, điều này tránh ảnh hưởng những tế bào gần với các khối u. Lutétium 177, không có trong tự nhiên và phải được sản sinh một cách nhân tạo, có một thời gian sống ngắn : 50% lượng lúc đầu tan rã trong vòng chưa được 7 ngày, điều này buộc phải sử dụng nó một cách nhanh chóng sau khi được sản sinh.
” Tính hiệu quả của điều trị này, đã được phát minh cách nay 10 năm ở Hòa Lan, vốn đã được biết từ lâu, nhưng sự sử dụng nó bất hạnh thay được dành cho vài chuyên viên đại học có trình độ cao. Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III, được tiến hành bởi AAA là rất quan trọng, bởi vì nó sẽ làm cho điều trị có để sử dụng ở một quy mô lớn hơn nhiều “, Ulli Koester, nhà vật lý thuộc Viện Laue Langevin (Grenoble) đã lấy làm vui sướng phát biểu như vậy.
(LEFIGARO 5/2/2016)
8/ NHỮNG THƯƠNG TỔN TIỀN UNG THƯ CỦA THỰC QUẢN : CẢI TIẾN ĐIỀU TRỊ BẰNG TẦN SỐ PHÓNG XẠ (RADIOFREQUENCE)
GS Louis Buscail, trưởng khoa tiêu hóa của CHU de Rangueil (Toulouse) trinh bày những ưu điểm của kỹ thuật mới này để ngăn ngừa tiến triển của những tế bào dạ dày thành ung thư.
Hỏi : Những thương tổn được tạo thành trong thực quản như thế nào ?
GS Louis Buscail : Do một hồi lưu dạ dày-thực quản (reflux gastro-oesophagien), những tế bào phủ dạ dày đi lên trong thực quản. Khi thực quản bị loạn năng, những tế bào dạ dày này, bởi vì chúng không nằm trong môi trường của chúng, sẽ tiến triển hướng về một quá trình tiền ung thư và qua giai đoạn được gọi là “dysplasie” (loạn sản).
Hỏi : Những thương tổn của dạng loạn sản này có bao gồm những giai đoạn nghiêm trọng khác nhau ?
GS Louis Buscail : Có nhiều thể nghiêm trọng, đi từ một giai đoạn cấp độ thấp (stade de bas grade), trong đó những thương tổn còn hiện tính chỉ xâm nhập một phần ngoại biên của niêm mạc của thực quản, đến một giai đoạn cấp độ cao (stade de haut grade), cũng được gọi là “cancer in situ” (ung thư tại chỗ), trong đó những tế bào bắt đầu thoái hóa tại chỗ. Ở một giai đoạn còn nghiêm trọng hơn, những tế bào ung thư xâm chiếm toàn bộ thành của thực quản. Ở Pháp, người ta liệt kê khoảng 1000 trường hợp mỗi năm những ung thư xảy ra sau một loạn sản thuộc loại này.
Hỏi : Những triệu chứng nào có thể khiến nghi ngờ nguy cơ thoái hóa của những tế bào của thực quản thành ung thư ?
GS Louis Buscail : Triệu chứng duy nhất có thể khiến bệnh nhân đi khám bệnh là một cảm giác vị chua, dịch nóng và acide đi lên dọc xưong ức, thường nhất sau một bữa ăn. Nhưng thường, không có một triệu chứng nào và ta khám phá một cách tình cờ bất thường khi nội soi được thực hiện vì một rối loạn tiêu hóa khác. Chẩn đoán được xác định bằng một sinh thiết, cũng sẽ xác định cấp độ của loạn sản.
Hỏi : Tùy theo những giai đoạn trầm trọng, ta điều trị những thương tổn này như thế nào để tránh chúng tiến triển thành một ung thư ?
GS Louis Buscail : Ta kê đơn những thuốc tác động vào sự tiết của dạ dày (những inhibteur de la pompe à protons).
Hỏi : Như thế ta làm ngừng được tiến triển của bệnh ?
GS Louis Buscail : Về những loạn sản cấp độ thấp, ta ổn định được chúng trong 85% các trường hợp. Nhưng một theo dõi sát sau đó là cần thiết. Đối với những loạn sản cấp độ cao, bất hạnh thay các thuốc không ngăn cản những thương tổn tiến triển thành ung thư trong 5 đến 13% các trường hợp. Do đó cần một liệu pháp mới.
Hỏi : Điều trị mới nhất được hiệu chính đối với những loạn sản đề kháng cấp độ cao này là gì ?
GS Louis Buscail : Đó là một kỹ thuật được thực hiện bằng đường nội soi : radiofréquence. Phương thức, dưới gây mê tổng quát, là phương thức của một thermocoagulation superficielle, tác động bằng nhiệt với một ống thông được đưa qua miệng và được đặt tiếp xúc với thành của thực quản.
Hỏi : Sau khi đưa ống thông vào, buổi radiofréquence diễn biến như thế nào ?
GS Louis Buscail : Ống thông được nối với một máy phát. Máy này phát ra một courant thermique nhằm phá hủy rất nông những thương tổn (những vùng métaplasique) của thành thực quản dưới sự kiểm soát của nội soi. Hai hay ba buổi, mỗi buổi 30 phút, được thực hiện với một khoảng cách 2 tháng rưỡi, là cần thiết để đạt được một sự hóa sẹo hoàn toàn.
Hỏi : Liệu pháp với radiofréquence này có cho phép có được những kết quả được mong chờ không ?
GS Louis Buscail : Những công trình nghiên cứu đã được thực hiện trên hàng trăm bệnh nhân với tỷ lệ chữa lành 89 đến 100%. Nguy cơ tái phát được đánh giá dưới 10% lúc 5 năm.
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi những chỉ định chính biện minh cho sự lựa chọn của kỹ thuật này ?
GS Louis Buscail : Hiện nay nó được chỉ định ở những bệnh nhân bị loạn sản cấp độ cao đã đề kháng với tất cả những điều trị thuốc. Nhưng rất nhanh, chúng tôi sẽ áp dụng radiofréquence tức khắc cho những bệnh nhân của loại này.
Hỏi : Ta có thể nhận điều trị này ở đâu ?
GS Louis Buscail : Khoảng 20 trung tâm ở Pháp từ nay được trang bị bởi kỹ thuật này, trong đó trung tâm của chúng tôi ở CHU de Rangueil (Toulouse), bệnh viện Cochin, Paris, hôpital Edouard-Herriot (Lyon).
Hỏi : Tóm lại, ông hay kể cho chúng tôi những ưu điểm của tiến bộ này
GS Louis Buscail : 1. Một tính hiệu quả rất lớn. 2. Một nhập viện khoảng 48 giờ. 3. Tỷ lệ biến chứng dưới 5%. 4. Ít đau lúc thức dậy.
(PARIS MATCH 3/3-9/3/2016)
9/ UNG THƯ PHỔI : PHƯƠNG TIỆN ĐIỀU TRỊ ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG.
NHỮNG CON SỐ
  • – Nguyên nhân dẫn đầu do ung thư ở đàn ông, đứng thứ ba ở phụ nữ
  • – 45.222 trường hợp mới ở Pháp năm 2015, trong đó 67% ở đàn ông
  • – Tỷ lệ sống sót lúc 5 năm 16% ở đàn ông và 20% ở phụ nữ
  • – Tỷ lệ mắc bệnh ở phụ nữ tăng cao hàng năm 5,4% giữa 2005 và 2012.
Ung thư phế quản, được gọi một cách tổng quát hơn là ung thư phổi, phát triển từ những tế bào của các phế quản hay ngoại lệ hơn từ những tế bào của các phế nang phổi, những cấu trúc phụ trách những trao đổi oxy giữa khí hít vào và máu. Ta phân biệt hai loại : cancer non à petites cellules (CNPC) và cancer à petites cellules (CPC). Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (CNPC) là thường gặp nhất với 80% các trường hợp. Còn ung thư phổi tế bào nhỏ (CPC) thì hung dữ hơn. Thuốc lá, yếu tố nguy cơ số 1, chịu trách nhiệm 80% những ung thư phế quản. Nhưng sự tiếp xúc với radon (khí tự nhiên hiện diện trong đất), với amiante hay trong một chừng mực ít hơn, với sự ô nhiễm, cũng tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những ung thư này. Vì không có test de dépistage được hợp thức hóa, nên chẩn đoán thường muộn và được liên kết với một tiên lượng xấu.
ĐIỀU TRỊ
Arsenal thérapeutique được thích ứng tùy theo những đặc điểm của khối u cũng như những đặc điểm của mỗi bệnh nhân. Trong ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (CNPC), khi bệnh nhân có thể mổ được và khi có thể lấy đi toàn bộ khối u, ngoại khoa là điều trị quy chiếu. Đó có thể là cắt bỏ thùy (lobectomie : lấy đi thùy của phổi bị ung thư), cắt bỏ hai thùy (bilobectmie) hay cắt bỏ một lá phổi (pneumonectomie). Phẫu thuật có thể được phối hợp với curage ganglionnaire (lấy đi các hạch bạch huyết nằm trong vùng của khối u). Ngoài ra ngoại khoa có thể được bổ sung bởi một hóa trị và/hoặc xạ trị. Khi động tác ngoại khoa không thể thực hiện, hóa trị (nhất là nếu có những di căn) và xạ trị là những điều trị thay thế.
Đối với ung thư phổi tế bào nhỏ (CPC) khu trú ở một lá phổi, ngoại khoa vẫn là ngoại lệ, hóa trị là điều trị quy chiếu, có thể được phối hợp với một xạ trị ngực. Nếu điều trị ban đầu có hiệu quả, một xạ trị phòng ngừa của não được thực hiện để phòng ngừa những di căn não. Trong trường hợp một CPC xảy ra ở phổi kia hay những cơ quan khác, hóa trị là điều trị được chỉ định để điều trị toàn bộ những thương tổn.
Trong trường hợp tái phát hay nếu bệnh nhân đã dùng hết những phương tiện điều trị, hướng về y khoa cá thể hóa (médecine personalisée) là điều càng ngày càng có thể. Nếu đó là ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (CNPC) giai đoạn IV (tiến triển tại chỗ và di căn), từ nay ta sử dụng điều trị nhắm đích (thérapie moléculaire ciblée). 3 loại thuốc thường được sử dụng, liên kết hay không với hóa trị : erlotinib (Tarceva), bevacizumab (Avastin) và gefitinib (Iressa). Tarceva tác dụng bằng cách phong bế sự tăng trưởng của những tế bào ung thư, dẫn đến một sự giảm kích thước của khối u ; Avastin ngăn cản vascularisation của khối u ; Iressa kềm hãm sự tăng sinh của những tế bào ung thư. Miễn dịch liệu pháp, nhằm kích thích hệ miễn dịch của bệnh nhân chống lại khối u, cũng là một trong những điều trị có tiềm năng mạnh trong ung thư phổi.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2016)
10/ UNG THƯ TUYẾN GIÁP : HY VỌNG CỦA MỘT LIỆU PHÁP NHẮM ĐÍCH.
GS Martin Schlumberger, trưởng khoa médecine nucléaire và cancérologie endocrinienne thuộc viện Gustave-Roussy và giáo sư của đại học Paris-Saclay, giải thích cách tác dụng của một điều trị cho những ung thư tuyến giáp đề kháng với iode phóng xạ.
Hỏi : Ông hãy nhắc lại cho chúng tôi vai trò của tuyến giáp
GS Martin Schlumberger : Tuyến này, cân nặng 15-20g, nằm ở cổ, trước khí quản, tiết những hormone (T3 và T4) cần thiết cho sự vận hành chức năng của các tế bào. Những hormone này được sản xuất từ iode, một yếu tố tự nhiên do thức ăn mang lại, mà tuyến giáp bắt giữ trong máu. Một sự gia tăng quá quan trọng của nồng độ của các hormone (tăng năng tuyến giáp) gây những rối loạn như mất ngủ, tim nhịp nhanh, ỉa chảy, và mồ hôi…Ngược lại, một sự sản xuất không đủ (giảm năng tuyến giáp) các kích thích tố gây nên chậm nhịp tim, ngủ lịm, sợ rét…
Hỏi : Các ung thư tuyến giáp có thường gặp không và có những thể khác nhau không ?
GS Martin Schlumberger : Ta liệt kê khoảng 8500 trường hợp mỗi năm ở Pháp, có hai loại. 1. 50% là những vi ung thư (microcancer), nói chung được khám phá một cách tình cờ lúc làm siêu âm : 85% sẽ vẫn ổn định trong khoảng 10 năm. 2. Những ung thư khác được gọi là “lâm sàng”.
Hỏi : Làm sao nghi ngờ một ung thư tuyến giáp ?
GS Martin Schlumberger : Nói chung, ung thư tuyến giáp tiến triển một cách thầm lặng. Chính lúc sờ thấy một khối bất thường ở tuyến giáp mà ta nghi ngờ sự hiện hữu của một u, hiền tính hay ác tính.
Hỏi : Những thăm dò nào cho phép có được một chẩn đoán đáng tin cậy ?
GS Martin Schlumberger : Siêu âm cho thấy một khối u đặc hay lỏng. Khi khối u đặc và đo hơn 1cm, ta thực hiện một chọc dò tế bào (cytoponction) để biết bản chất chính xác của nó. Khoảng 5% khối u là ung thư.
Hỏi : Có những người tố bẩm với ung thư này không ?
GS Martin Schlumberger : Ung thư tuyến giáp 2 đến 3 lần thường gặp hơn ở những phụ nữ, thường trẻ : 50% bị trước 45 tuổi. Một dạng, cancer médullaire, có thể có tính chất di truyền (dưới 3% của các khối u). Rọi X quang tuyến giáp trong thời kỳ thơ ấu tạo điều kiện cho sự phát triển của một ung thư những năm về sau.
Hỏi : Hiện nay ta điều trị ung thư tuyến giáp như thế nào ?
GS Martin Schlumberger : 1. Trong trường hợp microcancer, ta có thể chỉ cần theo dõi siêu âm hàng năm và phẫu thuật cắt bỏ chúng nếu chúng tiến triển. Những kết quả rất tốt. 2. Đối với những ung thư lâm sàng, ta thực hiện cắt bỏ ngoại khoa tuyến giáp và các hạch, nếu các hạch bị xâm nhập. Tùy theo nguy cơ tái phát, ta bổ sung bằng cách cho iode phóng xạ 131, gây bức xạ những tế bào ung thư còn sót lại và tiêu diệt chúng. Sau đó, tất cả các bệnh nhân được điều trị với thyroxine và được theo dõi.
Hỏi : Đối với những ung thư lâm sàng, những kết quả nào ta có được với protocole quy ước ?
GS Martin Schlumberger : Các kết quả đều tốt trong đại đa số các trường hợp, nhưng 5 đến 15% các ung thư hung dữ hơn và tái phát. Khi đó điều trị nhằm phối hợp ngoại khoa và cho iode 131. Nhưng vài ung thư di căn đề kháng với iode phóng xạ và, cho đến hiện nay, chúng ta không có điều trị hiệu quả nào để đề nghị.
Hỏi : Đối với những bệnh nhân đề kháng với iode này, liệu pháp mới nhất mang nhiều hy vọng là gì ?
GS Martin Schlumberger : Đó là lenvatinib, một điều trị nhắm đích, bằng đường miệng, có tác dụng chống sinh mạch máu (action antiangiogénique), tấn công những tế bào ung thư và những mạch máu nuôi dưỡng chúng.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu có chứng tỏ tính hiệu quả của loại thuốc này không ?
GS Martin Schlumberger : Một công trình nghiên cứu rộng lớn đã được tiến hành ở châu Âu, ở Hoa Kỳ và ở Nhật bản trên 392 bệnh nhân thuộc hai giới tính, mà tôi là người thăm dò chủ yếu. Tất cả đều bị một ung thư di căn của tuyến giáp, đề kháng với iode phóng xạ và tiến triển nhanh. Sau 18 tháng, bệnh được kiểm soát ở 51% những bệnh nhân được điều trị bởi lenvatinib so với 4% đối với nhóm placebo, và một sự giảm quan trọng của các khối u đã được quan sát ở 65% những bệnh nhân được điều trị. Như thế công trình nghiên cứu này đã cho phép chứng tỏ tính hiệu quả đáng chú ý của liệu pháp nhắm đích mới này.
Hỏi : Những kết quả này có đề cập những tác dụng phụ không ?
GS Martin Schlumberger : Hạ huyết áp, mệt, ỉa chảy, nhưng tất cả những rối loạn này có thể kiểm soát được.
Hỏi : Ta đã có thể sử dụng liệu pháp mới này ?
GS Martin Schlumberger : Lenvatinib có sẵn để sử dụng ở bệnh viện và sắp được thương mãi hóa.
(PARIS MATCH 7-13/4/2016)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(27/4/2016)